Tag Archives: PR

6 bước ra mắt thương hiệu mới thông qua PR

6 bước ra mắt thương hiệu mới thông qua PR

Trong quá khứ, hầu hết các thương hiệu đều bắt đầu với một chiến dịch quảng cáo hoành tráng. Trong môi trường các phương tiện truyền thông hiện nay, thì đó không phải là ý hay.

Quảng cáo hiện nay quá đắt đỏ và không được tin tưởng cho lắm, đặc biệt là khi được một thương hiệu mới sử dụng. Đó là lí do vì sao mà hầu hết các thương hiệu thành công hiện nay đều bắt đầu với các bài PR.

Thương hiệu như Google, Facebook, Snapchat và Twitter.

Tuy nhiên, khởi đầu một thương hiệu mới với phương pháp PR lại dấy lên nhiều nghi vấn. Nếu không có bất cứ quảng cáo nào, thì nhìn chung việc bắt đầu nên thay đổi như thế nào? Nếu không có một công ty quảng cáo nào tham gia vào, thì ai sẽ là người lên kế hoạch định vị thương hiệu?

Để kích thích bạn suy nghĩ về những câu hỏi trên và nhiều câu hỏi khác nữa, sau đây là 6 bước có bản khởi đầu bằng PR:

1. Rò rỉ thông tin

Thông thường, một chương trình PR thường bắt đầu với một sự rò rỉ thông tin với các nhà báo và biên tập viên quan trọng. Các trang báo mạng thường là những mục tiêu ưa thích.

Khi Steve Jobs còn sống, ông ấy có 3 nguồn yêu thích để tuồn thông tin: Walt Mossberg của tờ The Wall Street Journal, David Pogue của tờ Thời báo New York và Ed Baig của USA Ngày nay. Thông tin về Iphone đã bị rò rĩ với truyền thông hàng tháng trước khi mà nó được giới thiệu ra thị trường và đã thu hút một lượng lớn các câu chuyện truyền thông.

Nhưng tại sao một công ty lại làm như vậy? Chẳng phải nó sẽ giúp các công ty đối thủ phát triển sản phẩm mới của riêng họ hay sao?

Tất nhiên sự thể sẽ như thế. Tuy nhiên, chẳng có thương hiệu lớn nào trở nên thành công trong một lĩnh vực nếu không có sự cạnh tranh. Điều tuyệt nhất đã xảy đến với Coca-Cola chính là Pepsi-Cola. Kì lạ hơn nữa, Coke đã từng kiện Pepsi vì vi phạm bản quyền. Họ muốn Pepsi-Cola phải gỡ bỏ chữ “cola” ra khỏi tên thương hiệu của nó. Họ muốn sở hữu hạng mục cola.

Chả phải là ý kiến hay. Càng nhiều có nhiều đối thủ trong một lĩnh vực, thì lĩnh vực đó sẽ càng lớn. Sự cạnh tranh tạo ra sự chú ý khổng lồ của khách hàng và sẽ tạo tiền đề cho rất nhiều hoạt động PR.

Quảng cáo thì lại khác. Một chương trình quảng cáo thì bắt đầu như cuộc tổng tấn công quang trọng. Nó thường được giữ như một bí mật hàng đầu cho đến ngày nó khởi động. Hãy lấy Google làm ví dụ. Hãng đã mở một cuộc họp báo vào ngày 4 tháng 10 để giới thiệu chiếc smartphone mới nhất của hãng, the Pixel.

Ngay ngày hôm sau, Thời báo New York đã cho đăng một bài ở trang 3 về chiếc điện thoại này. Trong cùng số báo đó là 8 trang kèm theo về Google, 2 trang báo để quảng cáo, cùng 1 trang quảng cáo rời.

Thật là một sự lãng phí. Sau khi đã đọc bài về smartphone trên Thời báo New York, chả ai thèm đọc tiếp 8 trang kèm theo khi nó chỉ có 113 chữ – thông tin được cung cấp cũng không nhiều nhặn gì cho cam. Hơn nữa, chúng còn quảng bá thêm 3 sản phẩm nữa của Google: Daydream View, Google Home và Google Wifi.

Sẽ tốt hơn nếu họ để bài PR về chạy thêm vài tháng nữa trước khi bắt đầu chương trình quảng cáo. Thay vào đó, các bài quảng cáo sẽ tập trung sự thành công của buổi ra mắt (Không có gì thành công như thành công).

2. Xây dựng từ từ

Một chương trình PR sẽ hé lộ từ từ như một bông hoa đang nở. Công ty phải giành đủ thời gian để tạo đà cho PR.

Đó là lý do mà PR thường bắt đầu trước khi chi tiết về sản phẩm hay dịch vụ mới được quyết định. Hãy nhớ rằng bạn không giới thiệu chi tiết về sản phẩm mới, mà là một ý tưởng mới. Nó thu hút sự chú ý của truyền thông hơn như vậy.

Quảng cáo thì lại khác. Một chương trình quảng cáo thường bắt đầu với một “Vụ Nổ Lớn”. Do người tiêu dùng thường hay bỏ qua thông điệp của quảng cáo, một quảng cáo mới phải thật táo báo để vượt ra khỏi lằn ranh “sự ồn ào”.

3. Hãy tập hợp các đồng minh lại

Tại sao phải đi một mình khi mà bạn có thể có được sự giúp đỡ để truyền tải thông điệp của bạn. Sự phát triển từ từ của một chương trình PR cho bạn đủ thời gian để tìm đồng minh phù hợp.

Hơn nữa, việc được biết đến rộng rãi thông thường sẽ thu hút được các đối tác. Iphone được rộng rãi biết đến trước khi được ra mắt, đã giúp Apple thu hút nhiều công ty sẵn lòng cung cấp các ứng dụng điện thoại cho họ. Trong trường hợp của các sản phẩm ăn uống, thì nó sẽ giúp tìm được các nhà bán lẻ để phân phối sản phẩm của các thương hiệu mới trong lĩnh vực này.

Quảng cáo thì lại khác. Với một sự bắt đầu hoành tráng, thường thì sẽ không đủ thời gian để tìm kiếm đồng minh. Đồng thời, các đồng minh quảng cáo thường chia rẽ vì vấn đề ai phải trả cho phần nào.

4. Chỉnh sửa sản phẩm

Phản hồi của khách hàng là một yếu tố quang trọng của một chương trình PR. Với việc bắt đầu PR trước khi sự ra mắt chính thức của sản phẩm, thì các công ty đã có đủ thời gian để điều chỉnh sản phẩm hay giá bán của nó trước khi chính thức được bày bán.

Siêu thị và các cửa hàng bán lẻ khác thích được tham dự vào sự phát triển của một thương hiệu. Thường thì họ sẽ đề nghị những vấn đề hay ho để bạn có thể hoàn thiện sản phẩm, bao bì, giá cả, và cả chương trình PR.

Quảng cáo thì lại khác. Một khi chiến dịch quảng cáo trọng điểm đã khởi động, thì công ty chả thể làm gì được nữa. Có rất ít phản hồi và không đủ thời gian để thay đổi sản phẩm hay dịch vụ trước khi giới thiệu nó tới khách hàng.

5. Điều chỉnh thông điệp

Phản hồi từ một chương trình PR thường sẽ tạo cơ hội cho công ty điều chỉnh thông điệp thương hiệu để thu hút được nhiều khách hàng hơn. Truyền thông nhìn vào thông điệp PR của bạn với cương vị là một khách hàng. Sẽ thật nguy hiểm nếu bạn bỏ qua phản hồi này từ các kênh truyền thông.

David Ogilvy đã viết một trong trong những bài quảng cáo nổi tiếng nhất mọi thời đại: “Với vận tốc 60 dặm một giờ, âm thanh lớn nhất mà bạn nghe được từ chiếc Rolls-Royce mới cóng này là tiếng của chiếc đồng hồ điện tử”.

Nhưng ông ấy không viết tiêu đề của nó. Như đã giải thích trong đoạn đầu tiên của bài quảng cáo, nó được viết bởi Biên tập viên kĩ thuật của tạp chí “The Moter”.

Quảng cáo thì lại khác. Một khi đã bắt đầu, thì nó sẽ chẳng thể thay đổi được nữa. Nó quả thực khó khăn, đắt đỏ, và đáng xấu hổ khi cố gắng thay đổi chiến lược và thông điệp giữa chiến dịch quảng cáo.

6. Ra mắt thử nghiệm

Thời gian để PR sản phẩm mới nên kéo dài bao lâu? Nó dựa vào rất nhiều yếu tố. Đó là lý do vì sao mà chúng tôi gợi ý nên có kế hoạch ra mắt thử nghiệm.

Hãy lấy 3 mạng xã hội sau đây làm ví dụ. Friendster ra mắt trên toàn quốc vào năm 2002, Myspace vào năm 2003. Trong khi đó, Facebook ra mắt tại Harvard năm 2004. Facebook nhanh chóng có được 90% sinh viên đại học Harvard và tiếp tục với 8 trường đại học thuộc Ivy League. Và sau đó là tới các sinh viên cao học. Ba năm sau đó, Mark Zuckerberg thông báo rằng Facebook là dành cho tất cả mọi người. Tiêu đề trong số báo ngày 25/5/2007 của Thời báo New York: “Facebook khồng chỉ còn ở trong khuôn viên Đại học”. Năm 2009, Friendster được bán với giá 26 triệu đô-la Mỹ. Năm 2011, Myspace được bán với giá 35 triệu đô-la Mỹ. Và ngày hôm nay, Facebook trị giá 370 triệu đô-la trên thị trường chứng khoán.

Vậy thì, ai có chiến lược marketing tốt hơn?

Quảng cáo thì khác. Một chương trình quảng cáo thì thường gắn liền với tính khả dụng của sản phẩm. Quảng cáo bắt đầu chạy khi sản phẩm đã sẵn sàng để bày bán.

PR vs Quảng cáo

Cách thức mà một thương hiệu bắt đầu với hình thức PR đối nghịch hoàn toàn với cách mà một thương hiệu khởi động với hình thức quảng cáo, về mọi mặt. Và do có rất nhiều công ty thích sử dụng quảng cáo để ra mắt một thương hiệu mới hơn, có lẽ sẽ chẳng có quá nhiều công ty làm theo sáu bước trên. Tuy nhiên, hãy hy vọng là một số ít sẽ sẵn sàng thử.

Nguồn: BrandsVietNam

Mô hình PESO trong PR

Là chuyên gia PR trong thế giới công nghệ không ngừng cập nhật và thay đổi này, tốt hơn là bạn cũng phải thay đổi.

Cách đây 10 năm, tôi chỉ biết tới PEST hay SWOT trong các bài học PR trên giảng đường đại học. Tất nhiên, không phải những mô hình này đã trở nên lạc hậu, nó vẫn còn có giá trị ứng dụng. Nhưng để thành công hơn, không chỉ có vậy!

Dẫu PR không phải là Marketing hay Quảng cáo, nhưng thật điên rồ nếu có ai vẫn tin rằng PR không nằm trong chuỗi hay một chương trình Marketing nào đó. PR là một phần của Marketing, một phần của việc thúc đẩy bán hàng, một phần của dịch vụ khách hàng. PR hoàn toàn có thể tạo ra những xu hướng, kích thích hành vi mua, nuôi dưỡng sự hiểu biết và ra quyết định mua của công chúng. PR cũng có thể thu hút những tình nguyện viên mới. Và tất nhiên, PR cũng cung cấp rất nhiều giá trị cho những đối tượng công chúng khác nhau.

Nhưng vấn đề là PR của ngày hôm nay, của những năm 201x này, sẽ có thể làm được những điều thú vị, thúc đẩy việc kinh doanh hơn là chỉ như một chất xúc tác cho việc tăng cường nhận diện thương hiệu nếu có thể sử dụng và áp dụng theo mô hình PESO.

Mô hình tích hợp PESO là gì?

PESO là 4 loại hình truyền thông – paid (trả tiền), earned (lan truyền), shared (chia sẻ) và owned (sở hữu) – được kết hợp lại cùng nhau.

Paid media (Truyền thông trả tiền): trong trường hợp này, không đề cập đến những quảng cáo thương mại tốn kém, độc đáo hay là các mẫu print-ads. Truyền thông trả tiền trong một chương trình PR là các quảng cáo, bài viết được trả tiền trên các kênh truyền thông xã hội, các nội dung được tài trợ hoặc email marketing..

Earned media (Truyền thông lan truyền): chính là những gì thảo luận trên các kênh truyền thông hoặc báo chí. Tên của bạn xuất hiện trong các ấn phẩm, bài báo, tin tức truyền hình hoặc các công bố thương mại… Đó là những nội dung “hữu hình”, là kết quả thu được của PR.

Shared media (Truyền thông chia sẻ): chính là các kênh truyền thông xã hội. Bộ phận marketing hay dịch vụ khách hàng sẽ có nhiệm vụ sử dụng những phản hồi hay những câu chuyện có lợi cho thương hiệu xuất hiện trên các kênh này. Tổ chức sẽ chia sẻ nó như là một nguồn thông tin chính thống để truyền thông cho nội bộ và cả bên ngoài tổ chức.

Owned media (Truyền thông sở hữu): hay còn được hiểu như là nội dung bạn sở hữu, có thể xuất hiện trên website, blog của bạn. Bạn kiểm soát các thông điệp và kể những câu chuyện theo cách mà bạn muốn.

dimaco-300816-001

Sử dụng mô hình PESO như thế nào?

Khi tích hợp 4 loại hình truyền thông nói trên, bạn sẽ thấy bạn cần phải có sự tương tác với các KOLs, với các đối tác hay những chương trình xúc tiến để mở rộng. Nội dung truyền thông không chỉ là những gì bạn có từ trong nội bộ nữa, nó vượt ra ngoài ranh giới đó. Và khi mô hình PESO được thiết lập, nó sẽ giúp bạn thiết lập được các quyền hạn.

Nếu cần phải có nội dung (owned media) và bạn sẽ sử dụng shared media để phân phối nó, paid media để lan toả nó và earned media để làm nó nổi bật nó.

Shared media có thể không phù hợp với tất cả mọi thương hiệu hay doanh nghiệp, nhưng có một vài ưu điểm nếu bạn sử dụng nó và “test” chính những công chúng của mình.

Paid media thanh toán phụ thuộc và mức độ lan toả thông tin của bạn, từ quảng cáo cho tới tài trợ các sự kiện hay trả cho những KOLs.

Earned media được áp dụng khi bạn xây dựng mối quan hệ với các KOLs, nhà báo hay những người có ảnh hưởng khác. Tạo ra một danh sách những người có ảnh hưởng, theo dõi họ.

Đo lường PESO như thế nào?

Bạn cần xác định các số liệu PR và đảm bảo chắc chắn nó sẽ làm việc. Đối với mỗi loại phương tiện truyền thông, những số liệu sẽ khác nhau.

Paid media có thể đo lường qua Google Adwords, landing pages có bao nhiêu lượt xem, tương tác, tải nội dung hay mở email của bạn, lượt fans hay followers mới từ những nội dung được trả tiền v.v.

Earned media đo lường qua những mối quan hệ mà bạn có – với người ảnh hưởng, phóng viên hay blogger. Đo lương hiệu quả và sự ảnh hưởng thông qua việc xem xét các số liệu như: mục tiêu ảnh hưởng (1 KOLs có 10,000 followers có số điểm ảnh hưởng như thế nào với 1 KOLs chỉ có 1,000 followers, vì rất có thể người có 1,000 followers lại mang tới 10% người mua hàng theo họ trong khi người có 10,000 followers thì có có 1% mà thôi), web traffic từ những câu chuyện liên quan tới thương hiệu của bạn thế nào, hay là các blog hay những kênh nào đã mang visitors đến site của bạn, sự tăng trưởng những công chúng mới v.v.

Shared media đo lường dựa trên số lượng fans và followers, xu hướng tăng giảm sẽ giúp bạn nhận ra những gì bạn nên tập trung hay những gì tạo ra hiệu quả. Hãy sử dụng nhiều hơn các đại sứ thương hiệu, cố gắng có các nội dung “call to action”, sử dụng các URLs độc đáo, coupons, mã giảm giá, hoặc thậm chí là cả đường dây nóng chỉ để phục vụ cho kênh này.

Owned media thì khá khác biệt, vì nó là tích hợp của cả 3 loại phương tiện truyền thông nói trên. Để đo lường, hãy chú ý tới thời gian mà các visitors ghé thăm website của bạn, bounce rate v.v. Nếu bạn có những kênh truyền thông riêng, hãy giới thiệu nó qua email marketing. Khi bạn tích hợp nội dung vào những chiến thuật truyền thông trả tiền, bạn có thể kiểm tra được hiệu quả, như là lượt đọc, tải hay chia sẻ. Khách hàng có tải nội dung không? Họ có đọc ,xem hay nghe ít nhất một lần không? Họ có chia sẻ với cộng đồng không? Ai là người chia sẻ nội dung của bạn? Những điều này rất quan trọng vì nó sẽ cung cấp cho bạn một cái nhìn cơ bản về những khách hàng mới, công chúng mới và bạn biết bạn đang làm gì.

Bạn thấy không? Rõ ràng những hoạt động nói trên đều có ảnh hưởng tới bán hàng.

Nếu bạn bắt đầu với nội dung bạn tạo ra và sử dụng mô hình PESO để phân phối nó, nó có thể giúp bạn tìm ra con đường thành công.

Đi bộ, chạy bộ rồi chạy. Sau đó, rất có thể bạn cũng có thể bay được.

Nguồn: makeitnoise