Tag Archives: quảng cáo

Kinh doanh quảng cáo-Công nghệ di động thống trị

Kinh doanh quảng cáo-Công nghệ di động thống trị

Nền tảng dịch vụ Internet AOL vừa công bố cuộc khảo sát về triển vọng của ngành xuất bản trong bản báo cáo ‘2016 Publisher Outlook: Monetizing in the Age of Mobile & Video’, qua đó phản ánh một kết quả đáng chú ý: hơn 70% các nhà xuất bản báo chí đang sử dụng công nghệ tự động hóa (Programmatic) để bán quảng cáo trực tuyến.

Matt Gillis, Phó giám đốc cấp cao phụ trách mảng xuất bản tại AOL cho tờ Real-Time Daily cho biết rằng phần lớn trong 300 nhà xuất bản tham gia cuộc khảo sát có xu hướng dịch chuyển rõ rệt sang các nền tảng tiếp thị tự động. Theo Gillis, công nghệ Programmatic đang giúp các nhà xuất bản nâng giá trị hàng hóa và dịch vụ quảng cáo, nhờ vào khả năng hiểu biết về dữ liệu và tập trung vào việc tối ưu hóa quy trình bán hàng.

Đáp ứng yêu cầu cao hơn của người xem

Cuộc khảo sát cũng cho thấy trong giai đoạn mà công nghệ di động đang thống trị như hiện nay, các nhà xuất bản báo chí đang dồn sức đáp ứng nhu cầu của người đọc trong mảng di động và video, hai mảng được dự báo sẽ tăng trưởng mạnh nhất trong vòng 12 tháng tới. Trên thực tế, người tiêu dùng bắt đầu kiểm soát những gì họ xem trên mạng, loại thiết bị cũng như thời điểm trải nghiệm. Họ đòi hỏi việc chuyển đổi giữa các nền tảng phải ngày càng linh hoạt, họ mong đợi nội dung được cá nhân hóa nhiều hơn cũng như ước ao có thêm nhiều sự trải nghiệm sáng tạo

Các phần mềm chặn quảng cáo (Ad Blocker), chất lượng nội dung mẩu quảng cáo (Quality of Content/Creative) và các sự trải nghiệm đặc sắc (Quality Experience) là những mối thách thức lớn nhất mà các nhà xuất bản đang phải đối mặt. Tuy nhiên, việc sở hữu những thang đo khán giả có hiệu quả hơn (Better Audience Metric), các không gian quảng cáo có tính thu hút (Engaging Ad Unit), các đoạn video được ưu tiên thiết kế cho nền tảng di động (Mobile-first Video) và tốc độ tải quảng cáo nhanh hơn (Faster Ad Loads) cũng giúp các nhà xuất bản có thêm nhiều cơ hội không nhỏ.

Video được ưu tiên thiết kế cho nền tảng di động cũng giúp các nhà xuất bản có thêm nhiều cơ hội không nhỏ. Ảnh minh hoạ: GeoMarketing.

Theo cuộc khảo sát của AOL, 75% các nhà xuất bản kỳ vọng sẽ tăng vốn đầu tư vào mảng di động trong 12 tháng tới, trong đó, gần 50% có kế hoạch tăng đầu tư cho mảng này thêm 25% và hơn 10% nhà xuất bản có kế hoạch tăng thêm vốn đầu tư 50-100%. Hơn 50% các nhà xuất bản đã mở rộng nguồn cung dịch vụ quảng cáo trên nền tảng di động trong năm vừa qua. Trong năm qua, các mẩu quảng cáo video và quảng cáo hiển thị cũng tăng trưởng chủ yếu trên kênh di động. Có khoảng 70% các nhà xuất bản có lượt truy cập (traffic) vào trang trên nền tảng di động tăng đến 50% trong năm qua, số còn lại có mức tăng trưởng hơn 50%.

Với hơn 563 triệu thiết bị có kết nối di động được tiêu thụ trong năm 2015, trong đó đa số là điện thoại thông minh, các công ty nghiên cứu thị trường đã dự báo rằng đến năm 2019, số người sử dụng thiết bị di động sẽ chiếm 87% dân số toàn cầu.

Ở Mỹ, phần lớn những người sử dụng thiết bị di động hơn ba giờ mỗi ngày thường dành thời gian cho các phần mềm ứng dụng (in-app). 87% những người thuộc thế hệ Millennials (những người sinh ra trong giai đoạn từ đầu thập niên 1980 đến đầu thập niên 2000) – là thế hệ đầu tiên lớn lên cùng các phương tiện truyền thông xã hội, đồng thời là lực lượng lao động chủ lực của hiện tại và tương lai – cho biết họ luôn có điện thoại thông minh trong tay. Trung bình mỗi người sử dụng 27 ứng dụng mỗi tháng, nhưng 79% thời gian chỉ dành cho 5% số ứng dụng yêu thích nhất.

Trong năm qua, các mẩu quảng cáo video và quảng cáo hiển thị cũng tăng trưởng chủ yếu trên kênh di động.

Đối với mảng quảng cáo video, các nhà xuất bản kỳ vọng video số sẽ trở thành nguồn thúc đẩy doanh thu hàng đầu vào năm nay, nhờ vào các ý tưởng mang tính sáng tạo mà trải nghiệm của người sử dụng được cải thiện, nội dung quảng cáo có tính mục tiêu và thời gian tải trang nhanh hơn. Khoảng 50% nhà xuất bản kỳ vọng các định dạng video và đoạn quảng cáo (video clip) tương tác sẽ mang lại nhiều doanh thu hơn trong 12 tháng tới. 30% trong số những tờ báo tham gia cuộc khảo sát lại khẳng định chiều hướng tăng trưởng nói trên được thúc đẩy chủ yếu bởi Outstream Video. Đây là hình thức đoạn quảng cáo được xuất hiện độc lập trên bản tin (nội dung) dựa vào một số tiêu chí phù hợp, thay vì phát sóng kèm theo một nội dung video như hình thức Instream Video.

Cuộc khảo sát của AOL cũng cho thấy 70% số người sử dụng Internet thuộc thế hệ Millennials xem video trên thiết bị di động trước tiên. Trong khi đó, 48% xem video bằng ứng dụng trên điện thoại thông minh, chỉ 18% xem trên trang web di động. Trên toàn cầu, số người xem video trên thiết bị di động trong năm 2015 tăng hơn 35% so với năm 2014. Tỷ lệ này còn cao hơn ở Mỹ (50%), Canada (42%) và Anh (40%). Trên điện thoại thông minh, số người sử dụng xem video thời lượng ngắn (short-form) và dài (long-form) tương đương nhau – với tỷ lệ tương ứng là 30% và 29%, trong khi đa phần video được xem trên máy tính bảng có thời lượng hơn 20 phút.

Cuộc cách mạng về phân phối nội dung

Việc phân phối nội dung thông qua các nền tảng xuất bản của bên thứ ba (Third-party Publishing Platform) như Facebook Instant Articles, Apple News hay Google AMP vẫn là đề tài khiến cộng đồng các nhà xuất bản báo chí tranh cãi. Nhưng các con số thống kê đã cho thấy, dường như các nhà xuất bản chọn hướng đi mới đang được tưởng thưởng hết sức xứng đáng.

Hơn 90% các nhà xuất bản tin rằng truyền thông được phân phối mang lại tác động tích cực. Phần lớn đều cho rằng việc chia sẻ nội dung xuất bản giữa các trang web là cần thiết cho chiến lược của họ. Điều đó chẳng có gì là bất ngờ, bởi phần lớn các nhà xuất bản đều nhận được 25-50% lượng truy cập thông qua các nguồn khác đổ về trang web chính của mình. Mặc dù các tờ báo đang chứng kiến sự sụt giảm lượng truy cập đến từ các nền tảng bên thứ ba, nhưng mối quan tâm chủ yếu của họ vẫn xoay quanh việc kiểm soát doanh thu, tính minh bạch của dữ liệu người đọc và giá quảng cáo (CPM). Dĩ nhiên, chiến lược kiếm tiền mới này cũng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ như: khó kiểm soát chất lượng nội dung và duy trì lòng trung thành của độc giả đối với tờ báo; dần bị phụ thuộc vào các nền tảng phân phối trung gian; đó là chưa kể quy trình vận hành việc xuất bản và phân chia lợi nhuận khá phức tạp tùy theo từng nền tảng.

Apple News

Phần lớn các nhà xuất bản tin đều cho rằng việc chia sẻ nội dung xuất bản giữa các trang web là cần thiết cho chiến lược của họ. Ảnh minh họa: engadget.

Thị trường xuất bản đang thay đổi chóng mặt. Khi hành vi của người đọc tiến hóa, người mua dịch vụ truyền thông rục rịch thay đổi, xu hướng thị trường dịch chuyển, kết quả là giá trị của sản phẩm quảng cáo cũng biến động không ngừng. Nhưng trong năm 2016, các nhà xuất bản đã quyết liệt hơn để đạt hiệu quả kinh doanh tốt hơn. Chìa khóa của họ chính là dữ liệu.

Hơn bao giờ hết, đây là thời điểm then chốt để nhà xuất bản đầu tư vào các công nghệ nhằm xác định nguồn truy cập của người đọc, phân tích xem nguồn truy cập nào là đáng giá nhất. Bên cạnh đó là việc tích hợp thêm các tính năng thông minh cho công nghệ hiện hành để cải thiện chức năng ra quyết định trong thời gian thực và bảo đảm tính an toàn cho thương hiệu. Sau đó là việc tối ưu hóa liên tục nhằm đánh giá các mẫu hình người mua và giá cả, qua đó thu hút thêm nhiều độc giả có giá trị.

Rõ ràng, các nhà xuất bản đang lệ thuộc vào một loạt các dịch vụ do bên thứ ba cung cấp, phổ biến nhất là dịch vụ quản lý dữ liệu, phân tích và báo cáo thành quả. Hơn 66% các nhà xuất bản khẳng định, khả năng tiếp cận dữ liệu một cách toàn diện xuyên suốt các nền tảng là điểm rất quan trọng. Có không ít nhà xuất bản đang sử dụng một nền tảng quản trị dữ liệu tích hợp (DMP), nhưng lý do khiến họ chọn nền tảng này lại rất khác nhau. Bảo mật dữ liệu và quản lý đa-thiết-bị là các tính năng phổ biến nhất của DMP, tiếp theo là vận dụng dữ liệu người đọc để truyền tải nội dung, cuối cùng là tích hợp dữ liệu chính chủ và dữ liệu bên thứ ba.

Thay đổi trong mô hình kinh doanh

Trong năm 2016, các nhà xuất bản đã quyết liệt hơn để đạt hiệu quả kinh doanh tốt hơn. Chìa khóa của họ chính là dữ liệu.

Các nhà xuất bản vẫn còn là miếng mồi ngon cho các loại ‘thuế công nghệ’– lợi nhuận của họ đang thất thoát vào tay vô số nhà cung cấp trung gian trong quá trình mua-bán quảng cáo. Ví dụ, AOL đã chỉ ra rằng hơn 50% số nhà xuất bản giao dịch thông qua 5-6 nhà cung cấp công nghệ quảng cáo (Ad-tech Vendor), cá biệt, hơn 30% nhà xuất bản sử dụng từ 11 đến 16 nhà cung cấp. Chính vì vậy, tỷ lệ doanh thu truyền thông đến được tay các nhà xuất bản là dưới 50%.

Bởi cuộc cạnh tranh để giành lấy người sử dụng thiết bị di động, cũng là bạn đọc, đang trở nên khốc liệt còn các ứng dụng chặn quảng cáo thì ngày càng phổ biến, các nhà xuất bản bắt đầu cân nhắc những chiến lược khác để bổ sung cho ngành kinh doanh quảng cáo. Hiện hơn 75% các nhà xuất bản theo đuổi mô hình kinh doanh kết hợp giữa nguồn thu quảng cáo và việc kiếm tiền từ phí đăng ký theo dõi nội dung (Subscription) của độc giả. Với những nhà xuất bản tập trung vào mô hình Subscription, hơn 75% kỳ vọng sẽ mở rộng các phiên bản của mô hình này trong vòng một năm tới.

Có thể thấy hầu hết các nhà xuất bản đã thay đổi mô hình quảng cáo: 71% giao dịch truyền thông được triển khai qua kênh quảng cáo tự động, với xu hướng dịch chuyển rõ rệt sang các thị trường riêng (PMP), 56% các nhà xuất bản dựa trên một PMP duy nhất, và chỉ 28% sử dụng nhiều đối tác PMP.

Tuy giao dịch trên PMP ngày càng hoàn thiện, nhưng vẫn còn không ít sự thách thức, trong đó việc thiếu hụt công nghệ và chi phí vận hành và quản lý hệ thống là những thách thức lớn nhất.

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn

View. Like. Share

Khi người người, nhà nhà đều ám ảnh với những viral campaign như một loại ‘”thuốc biệt dược” và mong rằng hiệu ứng viral sẽ giúp khách hàng ghi nhớ thương hiệu, đó là lúc chúng ta cần đặt lại câu hỏi: “Chúng ta căn cứ vào đâu để nói là nội dung của chúng ta được lan truyền?”

Lan truyền có phải chỉ là những lượt view, like, share trên Facebook và chiến dịch được cho là thành công đó có mang lại giá trị kinh doanh cho thương hiệu? Không mang đến những giải pháp hay ý tưởng mới lạ cho một viral campaign hiệu quả, bài viết này sẽ đưa ta trở về những sự thật ngầm hiểu cơ bản mà bất kỳ marketer nào cũng cần nắm rõ khi bắt đầu một chiến dịch marketing, từ ý nghĩa của những view, like, share đến hành trình khẳng định giá trị bản thân khách hàng.

You are what you share – Seth Godin

Viral là một khái niệm không rõ ràng.

Chúng ta căn cứ vào đâu để nói là nội dung của chúng ta được lan truyền?

Dựa vào lượt xem (view)? Chưa chắc đã đúng vì lượt xem có thể đạt được thông qua việc mua quảng cáo.

Dựa vào lượt thích (like)? Có khả năng vì khi người ta thích có nghĩa là người ta có cảm xúc và phản ứng lại nội dung của mình.

Nhưng cuối cùng, quan trọng nhất vẫn là lượt chia sẻ (share), người ta xem và mong muốn giới thiệu cho mọi người cần xem.

Và do đó, trước khi làm một đoạn phim gọi là viral, chúng ta hãy tìm hiểu xem vì sao chúng ta view, like và share.

Ảnh: cyberbullying.org.

View

Thật ra thì không ai ép chúng ta xem, chúng ta được quyền chọn cái gì chúng ta muốn xem. Dĩ nhiên, sẽ có vài trường hợp bạn bị ép phải xem, ví như những đoạn quảng cáo trước những xuất chiếu phim, nhưng phần lớn chúng ta được quyền từ chối.

Tôi rất thích tính năng unfollow của Facebook. Đó là một tính năng tuyệt vời, cho phép bạn chặng những người bạn không muốn thấy nội dung của họ mà không phá hủy tình bằng hữu. Chúng ta unfollow và từ đó chọn lọc ra những người, những nội dung mà chúng ta muốn xem. Từ đó, chúng ta phải hiểu rằng mỗi đoạn phim gọi là viral chúng ta làm ra, phải được “phát hành” tại những nơi mà đối tượng chúng ta muốn xem.

KOL chưa chắc có sức mạnh thuyết phục, nhưng lợi thế của họ chính là lượng người đang theo dõi họ.

Like

Tạo sao chúng ta bấm nút like?

Phải chăng chúng ta nói cho người được like biết rằng tôi có quan tâm đến bạn?

Bao nhiêu lần chúng ta được an ủi vì một người nào đó chúng ta mong đợi vào like, và bạn biết rằng họ đã đọc những dòng tâm sự của bạn.

Like hệt như cách mà bạn nói “tao quan tâm đến mày” mà không cần phải gọi điện hỏi thăm cho nó.

Like là quan tâm, đồng cảm và chăm sóc.

Nhưng quan trọng hơn, những gì bạn like nói cho có thế giới biết bạn đang quan tâm đến điều gì.

Share

“Động cơ chia sẻ của bạn là gì?” – Tạ Bích Loan

Ảnh: cyberbullying.org.

Đây chính là điều quan trọng nhất.

Tạo nội dung được view hay like khá đơn giản, như tạo nội dung để được share quả là chuyện không hề giản đơn. Vậy thì thương hiệu làm gì để cái gọi là viral của họ được share?

Trong một nghiên cứu của tờ New York Times, chúng ta biết được những lý do cơ bản để chúng ta share.

Trước hết, 49% chúng ta share vì chúng ta muốn mang lại cho người thân của mình những thông tin quan trọng, hay và giải trí. Thật ra một mẫu quảng cáo hay những đoạn phim đến từ thương hiệu rất khó tạo ra điều này vì chúng ta không thể cạnh tranh được với những phóng sự giật gân về ung thư của VTV hay bài hát mới của Sơn Tùng. Người ta có những ý định “phòng thủ” nhất định đối với thông tin được đưa ra với mục đích quảng cáo. Dĩ nhiên, vẫn có nhiều trường hợp người tiêu dùng chấp nhận những thông tin hữu ích đến từ thương hiệu, nhưng nó phải là thông tin rất độc đáo và hữu ích.

Tiếp theo, 68% chúng ta share vì chúng ta muốn khẳng định lại giá trị bản thân.

Chúng ta muốn thể hiện mình là người kiên cường, không bỏ cuộc thông qua những đoạn phim đầy cảm xúc của các thương hiệu thể thao như Nike, Adidas, Under Amour…

Chúng ta muốn nói cho thế giới biết là tôi là người rất tinh tế, thời trang và sành điệu thông qua những mẫu phim quảng cáo tinh tế của Kenzo, LV hay Hermes.

Chúng ta muốn khẳng định mình là những tay lái đầy đam mê thông qua những đoạn phim quảng cáo xe máy chất lừ của Honda.

Tất cả những phim quảng cáo viral đều chất chứa một quan điểm sống, một phong cách và một giá trị sống khác nhau mà người xem muốn share.

Tiếp theo, 78% chúng ta share vì để nuôi dưỡng một mối quan hệ nào đó mà chúng ta trân trọng. Chúng ta đi chơi, chụp hình và sẽ tag người bạn của mình vào. Chúng ta tag những bài viết về tình yêu, hôn nhân gia đình, cách giáo dục con cái cho người bạn đời của mình.

Như thế, lúc này mỗi đoạn phim chúng ta làm chính là phương tiện giúp người dùng gởi thông điệp nào đó đế người thân, bạn bè của mình.

Chúng ta sẽ share và tag một đoạn phim tôn vinh người mẹ của P&G với mẹ của mình như là cách chúng ta nói cảm ơn mẹ.

Chúng ta sẽ share và tag một đoạn phim của một hãng dụng cụ nhà bếp nói về sự chia sẻ của vợ chồng trong gian bếp với chồng của mình, như là một cách nhắc khéo rằng tối nay đừng đi nhậu, về nhà nấu cơm cùng em.

Chúng ta share những đoạn phim hay về nghị lực sống cho những người bạn đang mắc phải những căn bệnh hay đang tuyệt vọng.

Đằng sau mỗi một đoạn phim quảng cáo mang tính viral chính là một thông điệp mà người bấm nút share muốn gởi đến những người thân yêu của mình.

Đằng sau mỗi một đoạn phim quảng cáo mang tính viral chính là một thông điệp mà người bấm nút share muốn gởi đến những người thân yêu của mình.

Cuối cùng, 84% những người share vì muốn nói cho thế giới biết tôi đang quan tâm và ủng hộ điều gì.

Tôi ủng hộ môi trường. Tôi chọn cá, không chọn thép. Tôi phản đối việc xây nhà máy thép. Đó là những thông điệp được đưa ra khi chúng ta share những bài báo về vần đề này.

Vậy thì thương hiệu có ủng hộ điều mà người tiêu dùng cũng đang ủng hộ? Thương hiệu hãy ủng hộ hôn nhân đồng tính. Hãy ủng hộ và khuyến khích con trẻ mơ uớc, người trẻ khởi nghiệp và người lớn tuổi sống tiếp với những ước mơ dang dở của mình. Đó có thể là thông điệp của bột giặt Omo, điện thoại thông minh Samsung hay sữa cho người lớn tuổi Ensure Gold.

Lúc này, những đoạn phim viral là những đoạn phim mang những quan điểm chung nhất, thân thuộc nhất mà chúng ta muốn nói ra.

Đừng mong người bình thường, view, like và share một đoạn phim quảng cáo, vì cơ bản nó không mang nhiều giá trị gì cho họ.

Chúng ta tạo ra những đoạn phim được quay thật đẹp, hình ảnh âm thanh xuất sắc để khi chúng ta share, chúng ta nói cho thế giới biết về gu thẩm mỹ của mình.

Chúng ta tạo ra những đoạn phim mang tính giải trí cao mà người tiêu dùng share nó như một món quà gởi tặng bạn bè.

Chúng ta tạo ra những đoạn phim mang những giá trị, tư tưởng sống mà người tiêu dùng chúng ta đang theo đuổi hoặc quan tâm.

Chúng ta tạo ra những đoạn phim với thông điệp đầy ý nghĩa mà người tiêu dùng gởi đến người thân.

Và hy vọng nó sẽ được viral.

Nguồn: BrandsVietNam

6 bước ra mắt thương hiệu mới thông qua PR

6 bước ra mắt thương hiệu mới thông qua PR

Trong quá khứ, hầu hết các thương hiệu đều bắt đầu với một chiến dịch quảng cáo hoành tráng. Trong môi trường các phương tiện truyền thông hiện nay, thì đó không phải là ý hay.

Quảng cáo hiện nay quá đắt đỏ và không được tin tưởng cho lắm, đặc biệt là khi được một thương hiệu mới sử dụng. Đó là lí do vì sao mà hầu hết các thương hiệu thành công hiện nay đều bắt đầu với các bài PR.

Thương hiệu như Google, Facebook, Snapchat và Twitter.

Tuy nhiên, khởi đầu một thương hiệu mới với phương pháp PR lại dấy lên nhiều nghi vấn. Nếu không có bất cứ quảng cáo nào, thì nhìn chung việc bắt đầu nên thay đổi như thế nào? Nếu không có một công ty quảng cáo nào tham gia vào, thì ai sẽ là người lên kế hoạch định vị thương hiệu?

Để kích thích bạn suy nghĩ về những câu hỏi trên và nhiều câu hỏi khác nữa, sau đây là 6 bước có bản khởi đầu bằng PR:

1. Rò rỉ thông tin

Thông thường, một chương trình PR thường bắt đầu với một sự rò rỉ thông tin với các nhà báo và biên tập viên quan trọng. Các trang báo mạng thường là những mục tiêu ưa thích.

Khi Steve Jobs còn sống, ông ấy có 3 nguồn yêu thích để tuồn thông tin: Walt Mossberg của tờ The Wall Street Journal, David Pogue của tờ Thời báo New York và Ed Baig của USA Ngày nay. Thông tin về Iphone đã bị rò rĩ với truyền thông hàng tháng trước khi mà nó được giới thiệu ra thị trường và đã thu hút một lượng lớn các câu chuyện truyền thông.

Nhưng tại sao một công ty lại làm như vậy? Chẳng phải nó sẽ giúp các công ty đối thủ phát triển sản phẩm mới của riêng họ hay sao?

Tất nhiên sự thể sẽ như thế. Tuy nhiên, chẳng có thương hiệu lớn nào trở nên thành công trong một lĩnh vực nếu không có sự cạnh tranh. Điều tuyệt nhất đã xảy đến với Coca-Cola chính là Pepsi-Cola. Kì lạ hơn nữa, Coke đã từng kiện Pepsi vì vi phạm bản quyền. Họ muốn Pepsi-Cola phải gỡ bỏ chữ “cola” ra khỏi tên thương hiệu của nó. Họ muốn sở hữu hạng mục cola.

Chả phải là ý kiến hay. Càng nhiều có nhiều đối thủ trong một lĩnh vực, thì lĩnh vực đó sẽ càng lớn. Sự cạnh tranh tạo ra sự chú ý khổng lồ của khách hàng và sẽ tạo tiền đề cho rất nhiều hoạt động PR.

Quảng cáo thì lại khác. Một chương trình quảng cáo thì bắt đầu như cuộc tổng tấn công quang trọng. Nó thường được giữ như một bí mật hàng đầu cho đến ngày nó khởi động. Hãy lấy Google làm ví dụ. Hãng đã mở một cuộc họp báo vào ngày 4 tháng 10 để giới thiệu chiếc smartphone mới nhất của hãng, the Pixel.

Ngay ngày hôm sau, Thời báo New York đã cho đăng một bài ở trang 3 về chiếc điện thoại này. Trong cùng số báo đó là 8 trang kèm theo về Google, 2 trang báo để quảng cáo, cùng 1 trang quảng cáo rời.

Thật là một sự lãng phí. Sau khi đã đọc bài về smartphone trên Thời báo New York, chả ai thèm đọc tiếp 8 trang kèm theo khi nó chỉ có 113 chữ – thông tin được cung cấp cũng không nhiều nhặn gì cho cam. Hơn nữa, chúng còn quảng bá thêm 3 sản phẩm nữa của Google: Daydream View, Google Home và Google Wifi.

Sẽ tốt hơn nếu họ để bài PR về chạy thêm vài tháng nữa trước khi bắt đầu chương trình quảng cáo. Thay vào đó, các bài quảng cáo sẽ tập trung sự thành công của buổi ra mắt (Không có gì thành công như thành công).

2. Xây dựng từ từ

Một chương trình PR sẽ hé lộ từ từ như một bông hoa đang nở. Công ty phải giành đủ thời gian để tạo đà cho PR.

Đó là lý do mà PR thường bắt đầu trước khi chi tiết về sản phẩm hay dịch vụ mới được quyết định. Hãy nhớ rằng bạn không giới thiệu chi tiết về sản phẩm mới, mà là một ý tưởng mới. Nó thu hút sự chú ý của truyền thông hơn như vậy.

Quảng cáo thì lại khác. Một chương trình quảng cáo thường bắt đầu với một “Vụ Nổ Lớn”. Do người tiêu dùng thường hay bỏ qua thông điệp của quảng cáo, một quảng cáo mới phải thật táo báo để vượt ra khỏi lằn ranh “sự ồn ào”.

3. Hãy tập hợp các đồng minh lại

Tại sao phải đi một mình khi mà bạn có thể có được sự giúp đỡ để truyền tải thông điệp của bạn. Sự phát triển từ từ của một chương trình PR cho bạn đủ thời gian để tìm đồng minh phù hợp.

Hơn nữa, việc được biết đến rộng rãi thông thường sẽ thu hút được các đối tác. Iphone được rộng rãi biết đến trước khi được ra mắt, đã giúp Apple thu hút nhiều công ty sẵn lòng cung cấp các ứng dụng điện thoại cho họ. Trong trường hợp của các sản phẩm ăn uống, thì nó sẽ giúp tìm được các nhà bán lẻ để phân phối sản phẩm của các thương hiệu mới trong lĩnh vực này.

Quảng cáo thì lại khác. Với một sự bắt đầu hoành tráng, thường thì sẽ không đủ thời gian để tìm kiếm đồng minh. Đồng thời, các đồng minh quảng cáo thường chia rẽ vì vấn đề ai phải trả cho phần nào.

4. Chỉnh sửa sản phẩm

Phản hồi của khách hàng là một yếu tố quang trọng của một chương trình PR. Với việc bắt đầu PR trước khi sự ra mắt chính thức của sản phẩm, thì các công ty đã có đủ thời gian để điều chỉnh sản phẩm hay giá bán của nó trước khi chính thức được bày bán.

Siêu thị và các cửa hàng bán lẻ khác thích được tham dự vào sự phát triển của một thương hiệu. Thường thì họ sẽ đề nghị những vấn đề hay ho để bạn có thể hoàn thiện sản phẩm, bao bì, giá cả, và cả chương trình PR.

Quảng cáo thì lại khác. Một khi chiến dịch quảng cáo trọng điểm đã khởi động, thì công ty chả thể làm gì được nữa. Có rất ít phản hồi và không đủ thời gian để thay đổi sản phẩm hay dịch vụ trước khi giới thiệu nó tới khách hàng.

5. Điều chỉnh thông điệp

Phản hồi từ một chương trình PR thường sẽ tạo cơ hội cho công ty điều chỉnh thông điệp thương hiệu để thu hút được nhiều khách hàng hơn. Truyền thông nhìn vào thông điệp PR của bạn với cương vị là một khách hàng. Sẽ thật nguy hiểm nếu bạn bỏ qua phản hồi này từ các kênh truyền thông.

David Ogilvy đã viết một trong trong những bài quảng cáo nổi tiếng nhất mọi thời đại: “Với vận tốc 60 dặm một giờ, âm thanh lớn nhất mà bạn nghe được từ chiếc Rolls-Royce mới cóng này là tiếng của chiếc đồng hồ điện tử”.

Nhưng ông ấy không viết tiêu đề của nó. Như đã giải thích trong đoạn đầu tiên của bài quảng cáo, nó được viết bởi Biên tập viên kĩ thuật của tạp chí “The Moter”.

Quảng cáo thì lại khác. Một khi đã bắt đầu, thì nó sẽ chẳng thể thay đổi được nữa. Nó quả thực khó khăn, đắt đỏ, và đáng xấu hổ khi cố gắng thay đổi chiến lược và thông điệp giữa chiến dịch quảng cáo.

6. Ra mắt thử nghiệm

Thời gian để PR sản phẩm mới nên kéo dài bao lâu? Nó dựa vào rất nhiều yếu tố. Đó là lý do vì sao mà chúng tôi gợi ý nên có kế hoạch ra mắt thử nghiệm.

Hãy lấy 3 mạng xã hội sau đây làm ví dụ. Friendster ra mắt trên toàn quốc vào năm 2002, Myspace vào năm 2003. Trong khi đó, Facebook ra mắt tại Harvard năm 2004. Facebook nhanh chóng có được 90% sinh viên đại học Harvard và tiếp tục với 8 trường đại học thuộc Ivy League. Và sau đó là tới các sinh viên cao học. Ba năm sau đó, Mark Zuckerberg thông báo rằng Facebook là dành cho tất cả mọi người. Tiêu đề trong số báo ngày 25/5/2007 của Thời báo New York: “Facebook khồng chỉ còn ở trong khuôn viên Đại học”. Năm 2009, Friendster được bán với giá 26 triệu đô-la Mỹ. Năm 2011, Myspace được bán với giá 35 triệu đô-la Mỹ. Và ngày hôm nay, Facebook trị giá 370 triệu đô-la trên thị trường chứng khoán.

Vậy thì, ai có chiến lược marketing tốt hơn?

Quảng cáo thì khác. Một chương trình quảng cáo thì thường gắn liền với tính khả dụng của sản phẩm. Quảng cáo bắt đầu chạy khi sản phẩm đã sẵn sàng để bày bán.

PR vs Quảng cáo

Cách thức mà một thương hiệu bắt đầu với hình thức PR đối nghịch hoàn toàn với cách mà một thương hiệu khởi động với hình thức quảng cáo, về mọi mặt. Và do có rất nhiều công ty thích sử dụng quảng cáo để ra mắt một thương hiệu mới hơn, có lẽ sẽ chẳng có quá nhiều công ty làm theo sáu bước trên. Tuy nhiên, hãy hy vọng là một số ít sẽ sẵn sàng thử.

Nguồn: BrandsVietNam

52 triệu 6 tiếng 1 ngày trên internet

Trong vài năm trở lại đây, có thể thấy xu hướng chuyển dịch mạnh mẽ của người tiêu dùng từ “public screen” (màn hình hiển thị nơi công cộng) sang “private screen” (thiết bị cá nhân).

Điều này có thể nhìn thấy rõ qua số người dùng internet tăng từ 35 triệu năm 2012 lên 52 triệu năm 2016 (theo TTXVN) và thời gian dùng internet trung bình là 5-6 tiếng, gấp đôi truyền hình, và gấp 3.5 lần báo giấy.

Vậy tại sao doanh nghiệp vẫn đầu tư hàng tỷ đồng vào quảng cáo OOH khi khách hàng của họ đã chuyển dịch sang internet? Đó là còn chưa kể đến những ưu điểm vượt trội của của quảng cáo trên các thiết bị cá nhân.

1. Độ phủ và khả năng nhắm trúng đối tượng

Các doanh nghiệp vẫn tin rằng độ phủ (số người nhìn thấy quảng cáo) của OOH là rất cao vì được đặt ở vị trí có lưu lượng giao thông cao. Tuy nhiên, nếu hình ảnh đó bị lẫn với hàng chục biển quảng cáo khác, không xuất hiện tới đúng khách hàng tiềm năng vào đúng thời điểm thì thật là lãng phí.

Sao vẫn còn dùng quảng cáo ngoài trời (OOH) khi 52 triệu khách hàng đang dành 6 tiếng 1 ngày trên internet?

Với quảng cáo trên thiết bị cá nhân, doanh nghiệp chủ động xác định ai sẽ nhìn thấy quảng cáo. Làm được điều này là vì các công ty cung cấp dịch vụ quảng cáo (như Admicro – hiện đang chiếm 40% thị phần quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam) có kho dữ liệu hành vi người dùng khổng lồ liên tục được cập nhật. Ngoài ra, công nghệ targeting nhắm chính xác quảng cáo tới khách hàng mà doanh nghiệp lựa chọn.

Ví dụ như 1 doanh nghiệp ngành sơn xác định khách hàng mục tiêu là nam giới mới lập gia đình, khoảng 25-40 tuổi và đang có nhu cầu xây sửa nhà. Thay vì chọn đặt biển quảng cáo tại ngã tư có khoảng 5,000 người lưu thông mỗi ngày, doanh nghiệp này có thể chọn 5,000 người đúng với khách hàng mục tiêu để tiếp cận đến trên môi trường internet.

2. Nội dung và hình ảnh hiển thị

Do chi phí thay thế cao và thi công phức tạp, y to, rõ ràng nhưnghàng mục tiêu để tiếp cận đến trên môi trường internet. mỗi ngày, đặt tại ngã tư có biển quảng cáo khác dichình ảnh trên quảng cáo OOH hầu như không thay đổi và khó hỗ trợ những hình thức sáng tạo. Ngược lại, hiển thị chính là lợi thế lớn của quảng cáo online: đa dạng về kích cỡ và hiệu ứng, tích hợp chơi game, xoay để khám phá hình ảnh 3D… Môi trường số còn hỗ trợ tương tác với khách hàng qua: trả lời thắc mắc, tư vấn trực tuyến hay thu thập thông tin…

Quảng cáo trên digital mang lại những trải nghiệm đa dạng.

Một lợi ích lớn hơn là khả năng chọn lọc hiển thị thông điệp theo người dùng. VD doanh nghiệp sơn đề cập ở trên có thể chia 5,000 khách hàng tiềm năng thành các nhóm khác nhau và có những thông điệp quảng cáo phù hợp, giúp doanh nghiệp tối ưu ngân sách và tăng hiệu quả quảng cáo.

3. Khả năng tái tiếp cận

Với những sản phẩm sử dụng lâu dài như vật liệu xây dựng, khách hàng cần nhiều thời gian để cân nhắc. Nếu không nhắc lại kịp thời, rất có thể khách hàng của bạn sẽ mua sản phẩm từ đối thủ.

Các quảng cáo OOH có vẻ đang tái tiếp cận 1 cách “thừa thãi” tới tất cả mọi người. Ngay cả với những người quan tâm, OOH cũng không thể đưa thêm thông tin để tăng tính thuyết phục. Để khắc phục điều này, quảng cáo trên Internet có tính năng tái tiếp cận tới những người đã thể hiện sự chú ý. Từ đó cho phép lọc đúng đối tượng tiềm năng để thuyết phục họ mua hàng bằng những thông điệp phù hợp.

4. Khả năng đo kiểm theo thời gian thực

Khái niệm thời gian thực đã được chú ý từ lâu nhưng chỉ có internet mới có thể hỗ trợ doanh nghiệp làm quảng cáo “theo thời gian thực”. Đây là những hoạt động quảng cáo diễn ra vào đúng thời điểm khách hàng vào truy cập vào internet, hệ thống dữ liệu của Admicro sẽ xác định xem đây có phải khách hàng tiềm năng để hiển thị quảng cáo. Tương tự, khái niệm đo kiểm theo thời gian thực cho phép xuất số liệu báo cáo vào thời điểm quảng cáo hiển thị. Với công nghệ của Admicro, thời gian xuất được số liệu báo cáo là 80 milliseconds.

Khả năng này cho phép doanh nghiệp linh hoạt trong hoạt động quảng cáo như thay đổi những hình ảnh/ thông điệp không hiệu quả, dừng quảng cáo ngay khi bán hết hàng, thay đổi đối tượng khách hàng phù hợp hơn ……

Với sự phát triển của công nghệ quảng cáo và xu hướng số hóa, cuộc chiến truyền thông trở lên vô cùng khốc liệ. Nếu không nhanh chân, có thể các đối thủ cạnh tranh của bạn sẽ chiếm lĩnh khách hàng môi trường số vào 1 ngày gần đây.

3 cách để quảng cáo trực tuyến của bạn thu hút

3 cách để quảng cáo trực tuyến của bạn thu hút

Với những người mới bắt đầu, hãy cân nhắc chỗ đặt quảng cáo bằng quy luật xưa của ngành bất động sản: Vị trí, vị trí và vị trí.

Quảng cáo trên mạng thì chán chết. Và bạn biết lý do vì sao đấy — phần lớn các quảng cáo đều xấu xí và ảnh hưởng đến việc lướt web và rồi chúng còn ảnh hưởng đến cả thời gian tải của các trang web nữa. Người ta dùng mọi cách có thể để ngăn chặn những quảng cáo không liên quan và gây quấy nhiễu: Gần 200 triệu người trên khắp thế giới sử dụng các phần mềm chặn quảng cáo.

Và kết quả cho các đơn vị phát hành quảng cáo là lỗ lã gần 22 tỷ USD trong doanh thu.

Thế nên, họ phải làm gì bây giờ? Quảng cáo trượt có thể giúp họ. Định dạng khá mới này xuất hiện như một cửa sổ, chạy dọc theo các dòng nội dung thông tin. Khi người dùng kéo chuột xuống để đọc bài viết, quảng cáo chạy theo một cách mượt mà trên màn hình.

Khi những người dùng thiết bị di động được hỏi về quảng cáo trượt, 51% trong số họ trả lời rằng họ có thiện cảm với những thương hiệu sử dụng nó hơn. Thế nên, kết luận cốt yếu và rõ ràng rút ra được là: Vị trí đặt quảng cáo cũng quan trọng không kém (thậm chí còn hơn cả) những yếu tố thẩm mỹ như bản in, màu sắc hoặc thiết kế.

Ảnh: Shutterstock.

Vị trí, vị trí và vị trí

Khi đang cố gắng nâng cao vị thế quảng cáo của mình, hãy nhớ rằng mọi yếu tố của quảng cáo đều phải thỏa mãn sự “gắn kết với nhau”, yếu tố này giúp củng cố yếu tố kia. Bạn sẽ không bao giờ thấy Mercedes mua một vị trí quảng cáo tệ hoặc đại trà, và cũng sẽ không thấy Tesla cho ra đời một quảng cáo mang tính quấy nhiễu cao.

Cả hai thương hiệu đều muốn bán xe hơi giá $100,000, nhưng cả hai cách quảng cáo nêu trên đều không tăng thêm sức thuyết phục cho một khách hàng chịu chi $100,000.

Cách mà doanh nghiệp của bạn quảng cáo là một thông điệp vô cùng rõ ràng người tiêu dùng về giá trị sản phẩm của bạn. Lúc nào cũng vậy, một quảng cáo tệ ở một chỗ cao cấp luôn cho kết quả tốt hơn một quảng cáo tuyệt vời ở vị trí spam.

Với banner ads: Chúng xuất hiện ở vị trí càng cao thì càng mang lại hiệu quả tốt. Tỷ lệ nhấp chuột vào những quảng cáo nằm ở các vị trí bên trên cao gấp gần bảy lần so với những quảng cáo được đặt ở phía dưới màn hình. Đối với những doanh nghiệp trẻ với nguồn vốn eo hẹp, vấn đề này vô cùng quan trọng và đôi khi nó đáng để đầu tư cho một vị trí ngay tầm mắt người đọc.

Tương tự như vậy, những vị trí quảng cáo tệ sẽ ảnh hưởng không tốt đến nhận thức của người tiêu dùng. Những quảng cáo không ảnh hưởng đến trải nghiệm người dùng được đánh giá tốt hơn rất nhiều so với những quảng cáo mang tính quẫy nhiễu. Mà cụ thể là những quảng cáo đặt giữa bài viết bị đánh giá kém nhất. Lý do? Chúng quấy rầy việc đọc của ngường dùng.

Banner ads xuất hiện ở vị trí càng cao thì càng mang lại hiệu quả tốt.

Thế nên, những thương hiệu quảng cáo theo phong cách ấy không thể tránh khỏi bị những đánh giá tiêu cực, và sụt giảm giá trị thương hiệu của họ trong mắt công chúng.

Không có chỗ cho sự ép buộc

Sự thành công của một chiến dịch phụ thuộc rất nhiều vào việc nó tác động đến người xem như thế nào. Nếu nó quá ép uổng và chiếm hết màn hình của người dùng, nội dung thông điệp có thể sẽ bị lạc mất. Ở Benja, chúng tôi biết được rằng bạn có thể cải thiện trải nghiệm quảng cáo của khách hàng bằng một vài nguyên tắc đơn giản sau đây:

1. Hãy tôn trọng người tiêu dùng

Thời gian người tiêu dùng dành cho một trang web biến động tùy từng người — và tùy từng ngày trong tuần. Người ta cho rằng thời gian trung bình vào khoảng 15 giây hoặc một một phút. Bất kể tình huống của bạn rơi vào điểm nào trong khoảng đó, hãy hiểu rằng thời gian của người xem rất quý giá và nó phải được tôn trọng.

Khách hàng truy cập vào các trang mạng để tìm hiểu về một thông tin gì đó chứ không vì thương hiệu của bạn. Đẩy một quảng cáo lên ngay mặt người ta không chỉ cho thấy sự thiếu tôn trọng mà nó còn thể hiện sự bất cần của bạn đối với trải nghiệm của người dùng. Hãy luôn nhớ điều này trong đầu khi nghĩ đến quảng cáo online của bạn.

Định dạng quảng cáo của chúng ta cho phép người dùng truy cập và hoàn thành giao dịch ngay bên trong quảng cáo. Chúng ta không mang người dùng ra xa khỏi mục đích vốn có của họ khi truy cập trang mạng; và chiến lược đó sẽ cho phép mọi thương hiệu sử dụng nó biến người tiêu dùng thành khách hàng.

Ảnh: Herald Sun / theaustralian.com.au.

2. Hoàn thiện trải nghiệm

Cá nhân hóa là tất cả. Trên thực tế, một phần ba các marketers nói rằng đó chắc chắn là tương lai của marketing. Nhờ những tiến bộ gần đây trong công nghệ kỹ thuật số, một thông điệp có thể được tùy chỉnh cho từng cá nhân một.

Công ty của chúng ta có thể dễ dàng tái tập trung đến những quảng cáo được cá nhân hóa. Tất cả những gì chúng ta cần làm là thêm cookie vào trình duyệt của khách truy cập; sau đó quản cáo sẽ xuất hiện mỗi lần những khách truy cập đó tiến vào vào một trang của nhà cung cấp tái tập trung khác.

Vấn đề, hoặc các vấn đề, là với phương pháp này không tăng thêm giá trị gì cho trải nghiệm của người dùng. Mà chúng còn trở thành những “kẻ bám đuôi”: Bất kể người dùng đi đến đâu, thương hiệu liền đuổi sát theo họ. Thêm nữa, dùng quảng cáo với những khách hàng đã từng mua sản phẩm của bạn sẽ tốt hơn.

Theo đó, thay vì tái tập trung, chúng ta dựa vào những dữ liệu có sẵn khác để tạo ra những nội dung có liên quan. Có lẽ điều thú vị nhất ở đây là phương pháp này không làm tổn hại đến tỷ lệ chuyển đối của chúng ta.

3. Hãy nghĩ đến trải nghiệm khi nhấp chuột

Sau khi nhìn thấy một quảng cáo “giảm 30%”, bạn sẽ khó chịu ra sao nếu mà nhấp vào đó chỉ đưa bạn đến một trang xa lắc so với trang giảm giá. Việc nhảy qua từng trang chẳng làm được gì hơn ngoài trừ cổ vũ người ta rời đi — mặc dù có một sự thật không may rằng phần lớn những quảng cáo thương mại điện tử đều yêu cầu người dùng phải trải qua chừng 10 đến 20 bước để hoàn thành một giao dịch.

Việc cố gắng “bán kèm” trước khi giao dịch được hoàn thành là một cách nhanh chóng để khiến người tiêu dùng quẳng cả giỏ hàng đi một lượt.

Thế nên, hãy chắc rằng những đường links của bạn sẽ dần người dùng đến đúng trang cần thiết. Mục tiêu của bạn là mang họ đến càng gần giao dịch càng tốt, chứ không phải đẩy họ ra xa. Thế nên, gây quấy nhiễu việc mua bán làm chi khi đó là mục đích cuối cùng của bạn?

Lưu ý sau cùng: Nếu bạn cần quảng bá những sản phẩm hoặc dịch vụ khác, hãy làm điều đó sau giao dịch ban đầu. Việc cố gắng “bán kèm” trước khi giao dịch được hoàn thành là một cách nhanh chóng để khiến người tiêu dùng quẳng cả giỏ hàng đi một lượt.

Kết luận

Cũng giống như khi thiết kế sản phẩm và dịch vụ, hãy luôn nghĩ tới khách hàng khi bạn làm quảng cáo. Hãy cân nhắc vị trí của nó và luôn ngẫm lại việc nó sẽ ảnh hưởng đến người dùng như thế nào. Nếu bạn không xâm phạm vào không gian người dùng và không gây cản trở trải nghiệm của họ, bạn đã đi trước nhiều thương hiệu vài bước rồi đấy.

Nguồn: BrandsVietNam

Tiếp thị kỹ thuật số bằng “selfie”

Tiếp thị kỹ thuật số bằng “selfie”

Theo số liệu được công bố vào tháng 11/2016 của Zephoria, một công ty chuyên về digital marketing (tiếp thị kỹ thuật số), chỉ tính riêng mạng xã hội phổ biến nhất thế giới là Facebook, mỗi phút có khoảng 510 comment (bình luận) mới được tạo ra, 293.000 status (dòng trạng thái) mới được đăng tải và hơn 136.000 tấm ảnh mới được public (chuyển sang chế độ công khai).

Mỗi ngày, có khoảng 4,75 tỉ nội dung khác nhau (đến từ các bài viết, video, hình ảnh…) được người dùng chia sẻ. Cũng từ năm 2013 đến nay, đã có hơn 16 triệu doanh nghiệp địa phương được thành lập dưới dạng pages trên Facebook.

Giới làm digital marketing vì thế thường nói vui, trong thế giới ảo, nếu bạn không muốn thương hiệu của mình bị lãng quên, hoặc là bạn tạo ra một bình luận lôi cuốn, thì bạn phải hoặc tạo ra thứ gì đó đáng để mọi người bình luận. Theo bà Roopa Dhawan – Tổng giám đốc Tập đoàn Truyền thông và Tiếp thị Mindshare tại Việt Nam, có tới 93% nội dung doanh nghiệp truyền tải trong các chiến dịch digital marketing ngày nay nhanh chóng bị chìm nghỉm và không bao giờ tới được khách hàng mục tiêu.

Thế nhưng, bất cứ điều gì cũng có 2 mặt. Bên cạnh việc tạo ra một cuộc chiến thông tin khốc liệt như vậy, mạng xã hội cũng vô tình tạo ra một công cụ, một cách để thương hiệu truyền đạt nội dung đến người dùng vô cùng hiệu quả, đó là marketing bằng… selfie.

Tại sao selfie là một công cụ tiếp thị nội dung hiệu quả?

Selfie chính thức bùng nổ vào năm 2013, thời điểm cụm từ này được từ điển Oxford ghi nhận (ngày 17/11/2013), kèm theo định nghĩa: “Một tấm hình do người dùng tự chụp cho mình, thường được chụp bởi điện thoại thông minh, webcam hay các sản phẩm công nghệ khác… rồi được đăng lên và chia sẻ ở các trang mạng xã hội”.

Theo một khảo sát nhanh từ tổ chức nghiên cứu Pew Research Center trên quy mô 802 người ở nhiều nơi trên thế giới với chủ đề What Teens Post (Giới trẻ đăng tải điều gì), 91% người được hỏi cho biết mình từng đăng hình ảnh selfie lên mạng xã hội.

Riêng với nước ta, hãng nghiên cứu thị trường Q&Me Market Research đã khảo sát 500 người trẻở khắp Việt Nam từ độ tuổi 15 trở lên về vấn đề chụp ảnh selfie, có 64% người trả lời “thích”.

Ngoài ra, nữ giới thường xuyên chụp hình selfie một mình hơn nam giới, tỷ lệ này chênh lệch khoảng 20%. Với mọi người, selfie mang lại cho họ sự tự tin, giúp họ ý thức hơn về giá trị bản thân, cũng như lưu giữ những khoảnh khắc đáng nhớ…

Theo một khảo sát của Edelman (công ty được nhận giải thưởng 2016 Global PR Agency of the Year) về mối quan hệ giữa thương hiệu và khách hàng, trên quy mô 15.000 người đến từ 12 nước, 90% người tiêu dùng muốn có một mối quan hệ gần gũi và ý nghĩa với thương hiệu mà họ đã sử dụng. Tuy nhiên, rất nhiều người dù “muốn có mối quan hệ gần gũi” nhưng lại không thích cảm giác bị lợi dụng.

Cụ thể, vẫn trong khảo sát nói trên, có đến 70% số người cho biết họ không vui khi cảm thấy đang bị lợi dụng, trở thành “trung tâm kiếm tiền” của thương hiệu chứ không hề được gắn kết với thương hiệu.

Chính vì thế, sử dụng selfie, một hình thức marketing “thụ động”, không chỉ thúc đẩy người dùng chủ động tạo nội dung, giúp họ cá nhân hóa những trải nghiệm bản thân, thỏa mãn nhu cầu của mình, mà quan trọng là tránh để họ có cảm giác bị lợi dụng, giúp thương hiệu gắn bó với người tiêu dùng hơn, giúp thông điệp trở nên lan tỏa và gần gũi hơn.

Làm điều đó như thế nào?

Dưới đây là 3 trong số rất nhiều cách được các thương hiệu từng áp dụng và đã thành công:

1. Khách hàng selfie và nhận ưu đãi

Để bắt đầu tạo ra dấu ấn cho mình, SoulCycle, một thương hiệu nổi tiếng với các lớp luyện tập đạp xe trong nhà, đã phát động một chiến dịch xung quanh hashtag #NoMoExcuses.

Chiến dịch này tập trung vào việc khách hàng sẽ selfie và chia sẻ hình ảnh của họ cùng với lời xin lỗi hoặc lý do ngăn cản họ tham gia các buổi tập của SoulCycle dù đã đăng ký. Bên cạnh đó, công ty này còn tạo ra một thư viện trực tuyến, nơi tập hợp tất cả hình selfie của khách hàng, đấu giá chúng và trao cho khách hàng những phần thưởng như các khóa luyện tập miễn phí.

Chỉ trong một tháng, các bộ sưu tập ảnh selfie này đã có gần 50.000 lượt xem, có hơn 5.300 khách hàng mới đăng ký và giúp mỗi chi nhánh của SoulCycle đạt mức tăng trưởng hơn 44%.

2. Tạo ra một nơi khuyến khích mọi người selfie

Giới trẻ thích chụp hình selfie và họ sẽ luôn lùng tìm những địa điểm đẹp, những góc máy ấn tượng để thay đổi diện mạo cho tấm ảnh selfie của họ. Vì vậy, một cách khá đơn giản, hãy tạo cho khách hàng của bạn một địa điểm thật đẹp để họ có thể selfie, như cách mà những trung tâm thương mại, rạp chiếu phim, khách sạn lớn… thường trang hoàng lung linh mỗi dịp lễ tết.

3. Đưa ra một thông điệp, một cái cớ để selfie

Mạng xã hội là nơi kết nối nhiều mối quan hệ khác nhau của khách hàng, vì vậy, tạo ra một thông điệp cụ thể, gần gũi để khuyến khích mọi người selfie hưởng ứng là một cách khá hữu hiệu.

Năm 2013, Dove thực hiện chiến dịch truyền thông cho nhãn hiệu mỹ phẩm chăm sóc tóc Dove bằng chiến dịch Dove Selfie. Tất nhiên Dove Selfie khuyến khích mọi người selfie, với thông điệp giúp những phụ nữ tự ti về sắc đẹp cảm thấy tự tin và yêu đời hơn.

Với việc kết hợp nhiều công cụ khác như mạng xã hội, app…, Dove Selfie gây được tiếng vang lớn, khi được MMA (Hiệp hội Mobile Marketing thế giới) bình chọn là chiến lược truyền thông sử dụng các công cụ tổng hợp tiêu biểu của Việt Nam 2014, đồng thời được giải bạc MMA ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Ngoài ra, chỉ riêng ứng dụng Dove Love Hair cũng đã có hơn 40.000 lượt tải, tiếp cận khoảng 7,9 triệu thành viên Facebook với hơn 4.000 tấm ảnh được chia sẻ…

Nguồn: Doanh nhân Cuối tuần

5 xu hướng tiếp thị cần quan tâm 2017

5 xu hướng tiếp thị cần quan tâm 2017

Cùng với các công nghệ mới gồm các thiết bị di động, truyền thông xã hội liên tục vượt xa kỳ vọng của người dùng và tự cạnh tranh để mang lại nhiều tính năng hơn.

Dưới đây là những lưu ý khi xây dựng chiến lược tiếp thị nội dung và SEO năm 2017.

1. Snap mở ra những cơ hội mới

Snapchat (hay còn gọi là Snap) đã biến đổi kỳ vọng của người dùng và các xu hướng chính trong tiếp thị mạng xã hội, đem lại cái nhìn tập trung vào khoảnh khắc nhiều hơn, tạo điều kiện phát triển các ứng dụng di động tập trung hơn và đặc biệt là đưa “video dọc” thành xu hướng mới.

Đa phần người dùng ít khi xoay điện thoại khi quay video. Snapchat chính là mạng xã hội đầu tiên cung cấp tính năng quay và xem video theo chiều dọc.

Snap vừa giới thiệu kính thực tế ảo, giúp người dùng trải nghiệm những thông tin trực quan từ góc nhìn thứ nhất và đó là cơ hội tiếp thị khổng lồ trong năm 2017.

2. “Lan tỏa” – mong muốn mới của người dùng

Người dùng dần yêu cầu các phương tiện truyền thông xã hội phải đóng vai trò dẫn dắt những trải nghiệm mang tính lan tỏa hơn.

Giờ đây, việc chỉ đăng các trạng thái cảm xúc về một sự kiện nào đó là chưa đủ, bạn cần cho mọi người thấy sự kiện đó thực sự diễn ra như thế nào. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được với những công cụ như video trực tiếp, hình ảnh và video 360 độ, thậm chí là những bài đăng thời gian thực.

3. Xuất hiện lĩnh vực truyền thông mới

Trước đây, truyền thông mạng xã hội tồn tại như một phương thức để các cá nhân giao tiếp trực tuyến. Khi các thương hiệu phát triển, nó cũng trở thành cầu nối để giao tiếp và quảng cáo tới người tiêu dùng. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông xã hội đang phát triển theo hướng truyền tải thông tin một cách mới mẻ. Một số nền tảng cung cấp dịch vụ khách hàng, tăng tầm quan trọng và tính tương tác trong việc trao đổi giữa thương hiệu và người dùng.

4. Quảng cáo sẽ trở lại thời kỳ “Phục Hưng”

Mức độ hiển thị các kết quả tìm kiếm tự nhiên ngày càng suy giảm, nhưng vẫn có tác dụng khiến các doanh nghiệp phải mua quảng cáo.

Cạnh tranh và áp lực thu hút hoặc duy trì lợi ích cũng buộc các nền tảng mạng xã hội phải lựa chọn các quảng cáo khéo léo và sáng tạo hơn. Khi những yếu tố này kết hợp, quảng cáo trên mạng xã hội sẽ hồi sinh vào năm 2017.

5. Cảm hứng và sáng tạo sẽ trở thành xu thế

Các bài viết thực tế rất được người dùng chú ý, nhưng những bài giàu cảm xúc vẫn được lan tỏa nhiều hơn. Tuy nhiên, những bài viết truyền cảm hứng và sáng tạo mới là đối thủ nặng ký, hứa hẹn thành công trên các phương tiện truyền thông xã hội. Điều này thúc đẩy việc sàng lọc, loại bỏ những quảng cáo không mấy ấn tượng, đem đến cho người dùng những giá trị thật sự.

Nguồn: Doanh Nhân Sài Gòn

Dữ liệu vị trí – “của để dành” của quảng cáo số

Dữ liệu vị trí – “của để dành” của quảng cáo số

Một trong những giải pháp công nghệ được ngành tiếp thị quảng cáo khai thác một cách hữu hiệu trong hoạt động của mình chính là công nghệ định vị vị trí của người sử dụng theo thời gian thực thông qua thiết bị di động.

Một cuộc nghiên cứu của IAB (Interactive Advertising Bureau) tiết lộ rằng 66% số nhà tiếp thị xem hoạt động tiếp thị dựa trên vị trí địa lý (location-based advertising) là tính năng hấp dẫn của nền tảng di động trong năm nay. Nhờ vào tính năng này, khả năng truyền tải thông điệp đến “đúng đối tượng, trong đúng bối cảnh, tại đúng thời điểm” không còn là giấc mơ xa vời với các doanh nghiệp lẫn công ty quảng cáo.

Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn còn e dè, bởi bên cạnh tính hấp dẫn không thể chối từ, còn có những điểm hạn chế nơi công nghệ định vị. Chính vì vậy, các doanh nghiệp luôn cân nhắc trước khi áp dụng vào các chiến lược tiếp thị sao cho phù hợp nhất có thể. Theo đó, để thành công, các doanh nghiệp khi thực hiện chiến dịch tiếp thị cần lựa chọn dịch vụ định vị chính xác nhất, kết hợp với việc nghiên cứu thói quen của người tiêu dùng dựa trên dữ liệu vị trí (location data) của họ, sau đó tạo nên những mẫu quảng cáo được cá nhân hóa với mức độ tương tác cao, và cuối cùng luôn phải tỉnh táo cũng như sẵn sàng ứng phó trước mọi chiêu thức gian lận trên thị trường cung cấp dịch vụ định vị.

Lựa chọn công nghệ định vị phù hợp

Hệ thống định vị toàn cầu GPS (Global Positioning System) là thành phần cơ bản của tất cả các thiết bị thông minh (smartphone). Công nghệ này sử dụng tín hiệu từ các vệ tinh nhân tạo để xác định tọa độ của một điểm trên mặt đất. Trong cùng một thời điểm, hệ thống phải nhận được tín hiệu của ít nhất ba vệ tinh mới có thể tính ra vị trí hai chiều (kinh độ và vĩ độ) cũng như theo dõi được sự chuyển động của người sử dụng thiết bị.

Được sử dụng trên toàn thế giới, công nghệ GPS là phương pháp hữu hiệu để định vị các tọa độ ngoài trời. Tuy nhiên, với những không gian trong nhà, mức độ chính xác của quá trình theo dấu dường như không đáp ứng được yêu cầu đề ra. Ví dụ như GPS không thể cho biết liệu một người sử dụng thiết bị di động có vừa mới bước vào một chi nhánh hoặc cửa hàng nào đó của công ty hay không.

Để bổ khuyết, bên cạnh tín hiệu GPS người ta còn có thể theo dấu người sử dụng dựa trên địa chỉ IP của thiết bị di động bất cứ khi nào họ kết nối với mạng Internet. Và như vậy doanh nghiệp có thể theo dấu vị trí khi người sử dụng tham gia vào mạng lưới Wi-Fi tại một không gian trong nhà cụ thể. Đây là cơ hội làm ăn dành cho các nhà cung cấp dịch vụ Wi-Fi bởi họ sở hữu nguồn dữ liệu chính chủ có giá trị về vị trí của người sử dụng cũng như những thông tin nhận dạng thiết bị liên quan – một lợi thế cạnh tranh tuyệt vời trong sân chơi tiếp thị dựa trên vị trí địa lý.

Wi-Fi là phương pháp tốt để theo dấu người sử dụng khi họ bước vào một không gian trong nhà – như văn phòng, trung tâm thương mại, quán bar hay quán cà phê… – và kết nối với hệ thống mạng không dây tại đây. Tuy vậy, việc áp dụng nó không hoàn toàn suôn sẻ bởi quyền chủ động thuộc về người sử dụng khi họ quyết định có truy cập hệ thống Wi-Fi này hay không.

Nhưng nhìn chung nếu người ta biết kết hợp hai công nghệ theo dấu Wi-Fi và GPS đúng cách, chúng có thể mang lại những kết quả định vị theo thời gian thực với độ chính xác cao, đồng thời nhà quảng cáo và doanh nghiệp còn xác định được hành vi của người sử dụng – ví dụ như họ đã ở một địa điểm cụ thể trong khoảng thời gian bao lâu dựa trên thời gian họ truy cập Wi-Fi.

Ngoài ra, thị trường còn có giao thức NFC (công nghệ giao tiếp không dây tầm ngắn – Near-Field Communications) và Beacon (bộ cảm biến không dây giúp thu nhận dữ liệu Bluetooth và định vị trên điện thoại di động) – hai trong số các phát kiến thú vị giúp theo dấu vị trí người sử dụng ở một không gian hẹp hơn nhưng cho độ chính xác cao hơn.

Vì còn khá mới mẻ nên cũng còn quá sớm để kết luận khả năng phát triển và mức độ ảnh hưởng của hai công nghệ kể trên đến hoạt động quảng cáo và tiếp thị trong tương lai. Hiện cả hai đều cho thấy khả năng định vị với độ chính xác khá cao nhưng lại đòi hỏi người sử dụng phải cài đặt tính năng hỗ trợ tương ứng trên thiết bị di động. Thêm nữa, công nghệ Beacon chỉ khả thi trong một phạm vi nhất định nơi mạng lưới các điểm thu – phát tín hiệu được thiết lập. Do vậy, việc triển khai trên diện rộng sẽ rất tốn kém với nhiều công ty.

Ngoài ra, giới hạn trong không gian địa lý (khoảng cách giữa hệ thống NFC, iBeacon và thiết bị phải đủ gần để thu – phát sóng) cũng khiến cho công nghệ này không phù hợp với những không gian rộng lớn ngoài trời. Chúng sẽ phát huy hiệu quả tốt nhất khi kết hợp với các hệ thống Wi-Fi trong nhà để định vị và nhắm đến phân khúc người sử dụng mua sắm ngay tại cửa hàng thực.

Trên tất cả, sự thách thức lớn nhất đối với hoạt động tiếp thị dựa trên vị trí là việc người sử dụng có thể vô hiệu hóa dịch vụ định vị hoặc đơn giản hơn – không mang theo thiết bị di động bên mình. Do đó, công nghệ không phải lúc nào cũng khả dụng trong việc theo dấu người sử dụng mọi lúc, mọi nơi.

Phác họa người sử dụng

Ngoài lợi ích lớn nhất là xác định vị trí của người sử dụng mục tiêu tại một thời điểm cụ thể, các dữ liệu địa lý còn làm được nhiều hơn thế. Doanh nghiệp có thể dành nhiều thời gian hơn với các phân lớp dữ liệu họ có để xây dựng nên bức tranh hoàn chỉnh về thói quen hằng ngày hay hằng tuần của một người sử dụng cụ thể.

Lấy ví dụ về chuỗi nhà hàng Nandos: họ có thể biết rõ khi nào một thực khách có mặt xung quanh khu vực nhà hàng của mình, tần suất xuất hiện bao nhiêu lần và vào thời điểm nào trong ngày. Đây thực sự là điều hiểu biết có giá trị để nhà quảng cáo xây dựng nên một bức tranh hoạt động thường nhật của người này và từ đó tùy chỉnh phương thức giao tiếp tương ứng sao cho mang lại hiệu quả cao nhất có thể. Chẳng hạn, với việc theo dấu vị trí và biết được một người thường hay đi qua những tuyến phố gần khu vực có nhà hàng của Nandos mỗi buổi sáng và buổi chiều muộn trong tuần, doanh nghiệp này phỏng đoán rằng người này làm việc đâu đó gần đây. Như vậy sẽ là không hợp lý nếu Nandos gửi cho họ một phiếu giảm giá hoặc chiết khấu khi ăn tại nhà hàng trong khu vực vào ngày cuối tuần.

Có quy trình xác minh dữ liệu

Kiểm tra quá trình luôn là điều cần thiết, đặc biệt khi dựa trên dữ liệu vị trí của người sử dụng. Cụ thể, bên cạnh việc thường xuyên xác minh xem những đối tượng được theo dấu có phù hợp với mục tiêu của chiến dịch hay không, doanh nghiệp còn phải quan tâm xem liệu công nghệ định vị có cung cấp thông tin chính xác hay không để tránh rơi vào trường hợp như tọa độ tham chiếu không hợp lệ, không chính xác hoặc nằm ngoài khu vực có khả năng tiếp cận… Một số nhà cung cấp dịch vụ có thể làm giả vị trí của người sử dụng để trục lợi, do đó doanh nghiệp phải thực sự thận trọng với các thông tin này.

Những điều thỏa thuận về tiêu chuẩn hiển thị thông tin là khá quan trọng. Ví dụ, tọa độ địa lý của Tháp Rùa ở Hà Nội là 21 độ 1 phút 40,07 giây vĩ Bắc; 105 độ 51 phút 8,15 giây kinh Đông thường được viết theo quy ước quốc tế dưới dạng thập phân là 21,02779N; 105,85226E. Nhiều cơ sở dữ liệu đều sử dụng chuẩn quốc tế này, nên doanh nghiệp cần yêu cầu rõ các thông số cần chính xác đến bao nhiêu chữ số đằng sau dấu thập phân từ các nhà cung cấp. Thông thường phải có ít nhất năm chữ số sau dấu thập phân mới đạt tiêu chuẩn vì lúc đó vị trí của người sử dụng được khoanh vùng chính xác trong bán kính 1m. Dưới mức này, độ chính xác giảm đi đáng kể và thông tin định vị không còn phù hợp cho hoạt động theo dấu vị trí theo thời gian thực (real-time geomarketing). Ví dụ khi chỉ còn ba chữ số sau dấu thập phân, phạm vi định vị người sử dụng mở rộng trên bán kính 100m và độ chính xác giảm đi đáng kể.

Khi làm việc với hàng tỉ thông tin về người sử dụng, có thể sẽ có một số lượng nhất định các tọa độ không đáp ứng được yêu cầu mà doanh nghiệp rất khó để phát hiện. Chính vì vậy các nền tảng xác minh mang tính độc lập sẽ giúp nhận dạng và lọc bỏ khỏi cơ sở dữ liệu bất cứ thông tin vị trí nào được xem là gian lận hoặc không hợp lệ bằng nhiều phương pháp. Ví dụ, nếu tọa độ một người sử dụng được định vị nằm giữa Thái Bình Dương, gần như chắc chắn nhà cung cấp dịch vụ đã sử dụng thủ thuật tự tạo vị trí giả và qua đó vô tình bị phát hiện khi hệ thống xác minh dữ liệu kiểm tra tới.

Sau khi chọn lựa công nghệ định vị phù hợp, doanh nghiệp tiến hành phân tích dữ liệu để nắm chắc hơn hoạt động của người sử dụng, xác minh và lọc bỏ những thông tin không hợp lệ. Và bước cuối cùng, đó là vận dụng kiến thức và sự hiểu biết từ dữ liệu nói trên để tạo nên những mẫu quảng cáo có tính sáng tạo, được cá nhân hóa tương ứng với từng cá nhân, có tính tương tác cao, và cuối cùng thúc đẩy người tiêu dùng mua sắm dịch vụ, hàng hóa. Khả năng này hoàn toàn nằm trong tầm tay một khi dữ liệu vị trí được vận dụng đúng cách. Điều quan trọng là doanh nghiệp phải nhận thức được rằng luôn luôn có sự trao đổi giá trị giữa thương hiệu và người tiêu dùng – trong đó người tiêu dùng chỉ chấp nhận mẫu quảng cáo khi nó được cá nhân hóa cho riêng họ dựa trên từng bối cảnh cụ thể.

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn

Facebook chuẩn bị thử nghiệm quảng cáo trên TV

Facebook chuẩn bị thử nghiệm quảng cáo trên TV

Tuần tới, Facebook sẽ bắt đầu phân phối quảng cáo video trên các ứng dụng hoạt động với những thiết bị giải mã tín hiệu truyền hình (set-top box) như Apple TV và Roku.

Theo Recode, Facebook đang trở thành đế chế ở mảng quảng cáo trên nền tảng di động và máy tính để bàn nhưng vẫn chưa chạm tới được thị trường TV đầy tiềm năng. Và để bành trướng, hãng quyết định mở rộng mạng lưới quảng cáo video chạy trên các ứng dụng TV. Những hệ thống đầu tiên được Facebook thử nghiệm là Apple TV và Roku vào đầu tuần tới, nhưng chưa biết cụ thể độ dài các quảng cáo.

Chia sẻ với Recode, người phát ngôn của Facebook cho biết các quá trình thử nghiệm sắp tới sẽ giúp xác định “làm cách nào để phân phối các quảng cáo video tốt nhất qua hệ thống Audience Network để đến với những người xem nội dung trên các TV được kết nối”, bên cạnh đó là “mang đến những trải nghiệm quảng cáo thích hợp cho người dùng dù họ đang tắt hay mở Facebook”.

Hiện nay các video xem trên set-top box vẫn có quảng cáo nhưng trải nghiệm mới của Facebook hứa hẹn sẽ đem các quảng cáo tốt hơn đến khách hàng mục tiêu so với các ứng dụng trong quá khứ.

Quảng cáo Facebook sẽ sớm bùng phát trên TV? Ảnh: Reuters.

Những quảng cáo này sẽ không được hiển thị ưu tiên trên Apple TV, Roku hoặc trong các ứng dụng video như Netflix nữa mà thay vào đó, chúng sẽ chỉ xuất hiện trong các ứng dụng có sử dụng quảng cáo.

Quá trình thử nghiệm sẽ được giới hạn ở Mỹ, và thay vì hiển thị các chiến dịch quảng cáo thực sự, các video sẽ được sử dụng để quảng bá các tính năng mới của mạng xã hội Facebook như Facebook Live, hoặc các thông báo từ những đối tác phi lợi nhuận.

Thử nghiệm sẽ bao gồm việc sử dụng các địa chỉ IP và tài khoản Facebook đăng nhập vào set-top box hoặc đăng nhập trên các thiết bị khác với địa chỉ IP giống nhau. Thông qua việc sử dụng địa chỉ IP, Facebook có thể biết Apple TV được sử dụng bởi cùng một người – hoặc ít nhất là cùng một gia đình – và sử dụng dữ liệu đó để cung cấp quảng cáo phù hợp.

Khi hoàn thiện, Facebook sẽ bán các quảng cáo cho những hãng tiếp thị, tương tự như cách các quảng cáo đang xuất hiện trên các thiết bị di động và máy tính hiện nay. Tuy nhiên điều đầu tiên Facebook cần làm là thuyết phục các nhà sản xuất bộ giải mã truyền hình để dung hòa những ý tưởng quảng cáo trên thiết bị của họ vì họ cũng có những ý tưởng quảng cáo của riêng mình.

Nguồn: BrandsVietNam

Khuyến mãi cũng phải "có chiêu"

Khuyến mãi cũng phải “có chiêu”

Hiện nay, hầu hết các công ty bất động sản đều dùng khuyến mãi để kích sức mua dù thị trường không phải quá trầm lắng.

Các hình thức khuyến mãi thường được áp dụng là tặng tiền, vàng, chiết khấu cao, lãi suất cho vay hấp dẫn cùng miễn phí một số dịch vụ và chế độ hậu mãi. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp (DN) còn “khuyến mãi khủng” khi từng đưa ra giải thưởng là du thuyền triệu đô, xe hơi siêu sang, bộ quà tặng điện máy (ti vi, tủ lạnh, máy giặt, máy lạnh, dàn âm thanh…) trị giá cả trăm triệu đồng.

Năm 2016, nhiều DN bất động sản tiếp tục tung ra các gói khuyến mãi để thu hút khách hàng. Cụ thể, trong tháng 5/2016, Tập đoàn Novaland công bố tặng phiếu quà tặng mua căn hộ, ưu đãi 1% và phiếu rút thăm trúng ô tô BMW, xe máy Honda SH… cho khách hàng mua bất kỳ sản phẩm nào của Novaland.

Các nhà phát triển bất động sản còn áp dụng chính sách miễn phí dịch vụ, như Vingroup miễn phí dịch vụ 10 năm cho cư dân tại Royal City, Times City, Vincom Village…

Khuyến mãi cũng phải "có chiêu"

Khuyến mãi cũng phải “có chiêu”

Ở lĩnh vực bán lẻ, nhiều chương trình khuyến mãi được thực hiện suốt năm.

 

Các khuyến mãi hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thường được người tiêu dùng ủng hộ. Ảnh: Quý Hòa.

Big C, Co.opmart cũng thường tổ chức các chương trình khuyến mãi lớn. Theo thống kê từ phòng Marketing Saigon Co.op (chủ quản của hệ thống siêu thị Co.opmart), bình quân mỗi năm có không dưới 10 chương trình khuyến mãi được Co.opmart triển khai, trong đó chương trình “Tự hào hàng Việt” được triển khai thường niên với tổng số tiền rất lớn, như năm 2015 là 189 tỷ đồng, năm 2016 là 200 tỷ đồng.

Các chương trình khuyến mãi đang được nhiều DN xem như công cụ giúp tăng doanh số, mang lại hiệu quả kinh doanh cao. Tuy nhiên, các chuyên gia marketing cho rằng khuyến mãi tặng quà, giảm giá bán có thể giúp việc bán hàng đạt mục tiêu đề ra nhưng nếu sử dụng tùy tiện có thể làm thiệt hại đáng kể cho thương hiệu DN.

Khi triển khai chương trình khuyến mãi, cụ thể như giảm giá, DN rất dễ dàng để thực hiện, dễ dàng theo dõi, thu hút sự chú ý của người tiêu dùng. Tuy nhiên, nhược điểm của chương trình này là có thể làm giảm lợi nhuận và thu hút khách hàng không trung thành.

Nhiều khi chính các chương trình khuyến mãi cũng ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu, nếu tổ chức thường xuyên sẽ tạo tâm lý “trông chờ khuyến mãi mới mua hàng” ở người tiêu dùng.

Nhiều khi chính các chương trình khuyến mãi cũng ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu, nếu tổ chức thường xuyên sẽ tạo tâm lý “trông chờ khuyến mãi mới mua hàng” ở người tiêu dùng.

Theo đại diện các siêu thị bán lẻ, sau các chương trình khuyến mãi, doanh số bán hàng thường tăng từ 30 – 50%, thậm chí có thời điểm như lễ, Tết, doanh số tăng đến 100% so với ngày thường. Đại diện Saigon Co.op cho biết, trong dịp lễ 2 tháng 9 vừa qua, sức mua tại một số siêu thị trong hệ thống Co.opmart đã tăng 3 – 4 lần so với ngày thường.

Hiện nay có rất nhiều phương thức để thực hiện các chương trình khuyến mãi, nhưng các DN phải biết cách khai thác sao cho phù hợp với thực tế tại đơn vị. Nếu giảm giá, có thể triển khai theo tuần, theo tháng để tăng doanh số hoặc có thể khuyến mãi theo mùa lễ, Tết.

Nếu bán hàng trực tuyến, DN có thể giảm giá khi khách hàng like, share hoặc giới thiệu đến người quen, hoặc cũng có thể triển khai chương trình dành riêng cho mạng xã hội. DN cũng có thể khuyến mãi cho khách hàng trung thành, giảm giá cho những người có ảnh hưởng (bloger, người nổi tiếng…).

Việc hợp tác với những người có ảnh hưởng, có lượng khán giả lớn là cách rất tốt để tăng nhận diện thương hiệu. Bằng cách tạo ra chương trình khuyến mãi riêng dành cho cộng đồng những người này, DN sẽ có thêm cơ hội chuyển lượng fan hâm mộ của họ thành khách hàng của mình.

Nguồn: BrandsVietNam