All posts by phucnguyenhoang

90% doanh nghiệp tiếp thị trực tuyến

Đã có hơn 90% doanh nghiệp của TP HCM tìm đến công cụ tiếp thị trực tuyến, theo thống kê của Đại học Tài chính-Marketing.

Một nghiên cứu do Tiến sĩ Nguyễn Xuân Trường – Khoa Marketing (Đại học Tài chính – Marketing) chủ trì vừa được công bố tại hội thảo “Việt Nam Digital Marketing 2016” cho biết, đã có hơn 90% doanh nghiệp tại TP HCM từng sử dụng công cụ tiếp thị trực tuyến (Digital Marketing). Trong số này, hơn 85% vẫn kết hợp tiếp thị trực tuyến với các phương thức tiếp thị truyền thống. Chỉ khoảng 15% triển khai tiếp thị trực tuyến độc lập.

Các hình thức tiếp thị trực tuyến phổ biến nhất có: Online Advertising, Email Marketing, Paid Search, SEO, Online PR, Mobile Marketing và Social Media. Trong đó, Online Advertising, Email Marketing và Paid Search đang được sử dụng nhiều hơn cả. Doanh nghiệp làm tiếp thị trực tuyến cũng đã bài bản hơn. Hầu hết tiến hành tiếp thị trực tuyến theo dự án, theo kế hoạch năm và quý.

90-doanh-nghiep-tp-hcm-su-dung-tiep-thi-truc-tuyen

Tuy nhiên, xét về kết quả, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Trường nhận định: “Hiệu quả của các công cụ tiếp thị trực tuyến cũng như hoạt động tiếp thị trực tuyến còn chưa cao như mong đợi của doanh nghiệp. Điều này có thể là do sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và hoạt động tiếp thị trực tuyến của các doanh nghiệp chưa thực sự bài bản.”

Kết quả nghiên cứu cũng cho biết, khoảng 60% doanh nghiệp đang có ý định tăng ngân sách cho tiếp thị trực tuyến trong giai đoạn từ đây đến 2020. Tuy nhiên, để khoản ngân sách này được rót vào hiệu quả thì nhóm nghiên cứu cho rằng, vấn đề nhân lực cần phải cải thiện. Hiện, mỗi doanh nghiệp chỉ mới có trung bình 1-2 người chuyên làm tiếp thị trực tuyến. Đa phần nhân viên có trình độ đại học nhưng từ các ngành khác và học thêm công cụ tiếp thị trực tuyến chứ hiếm có nhân sự chuyên sâu.

Bà Tammy Phan – Giám đốc chiến lược kinh doanh bán hàng thị trường Việt Nam của Google nhận định, mọi người ngày nay đang “nắm cả thế giới trong bàn tay” thông qua chiếc smartphone. Có đến 70% người mua hàng tìm kiếm thông tin trên Google trước khi ra quyết định. Để tiếp thị trực tuyến hiệu quả, bà gợi ý doanh nghiệp nên quan tâm đến 5 khoảnh khắc mà người tiêu dùng cần đến internet nhất. Đó là: Xem những điều họ đam mê, khi cần biết thông tin gì đó, khi muốn đi đến đâu đó, khi muốn làm gì đó và khi muốn mua gì đó. Xếp theo thứ tự thì “Khi muốn mua gì đó” chỉ là lý do thứ 5 mà người tiêu dùng muốn tiếp cận internet. Điều quan trọng là doanh nghiệp phải khéo léo xuất hiện ở những khoảnh khắc còn lại, khi mà người tiêu dùng đang “lang thang trên mạng”.

90-doanh-nghiep-tp-hcm-su-dung-tiep-thi-truc-tuyen-1

Ông Trương Văn Quý – CEO của EQVN nhận định, bản thân hoạt động tiếp thị trực tuyến cũng đang thay đổi. Trong đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ bắt kịp xu thế nhanh hơn. Ông cho rằng, trên môi trường trực tuyến, hoạt động tiếp thị và bán hàng đang dần liên kết trực tiếp với nhau. Hoạt động tiếp thị trực tuyến đã có thể trực tiếp mang lại doanh thu.  “Doanh nghiệp cần thay cơ chế chi tiền cho marketing. Nó không còn nằm ở bộ phận marketing nữa mà còn nằm ở bộ phận bán hàng”, vị này đề xuất.

Ông Quý dẫn chứng mô hình Personal Selling và Personal Marketing. Ngày nay, ở một số ngành, một nhân viên có thể làm cả 2 việc tiếp thị và bán hàng (Personal Selling & Marketing) với kết quả tốt hơn. Bất động sản là một ví dụ. Ông cho biết, có những nhân viên kinh doanh bất động sản giỏi sẵn sàng tự chi 9-10 triệu đồng mỗi tháng để chạy tiếp thị trực tuyến nhằm bán được khoảng 2 sản phẩm, thu về 30-40 triệu đồng thu nhập từ hoa hồng. Chính vì thế, doanh nghiệp nên cấp quyền và ngân sách cho họ nhiều hơn để họ có đủ kinh phí chạy tiếp thị trực tuyến trong thời đại quyền lực của truyền thông cá nhân ngày càng mạnh chứ không còn tập trung chỉ vào thương hiệu.

“Cũng còn nhiều doanh nghiệp khá bỡ ngỡ với tiếp thị trực tuyến vì họ vẫn không coi công nghệ là một phần trong hoạt động kinh doanh của mình. Tôi nghĩ cấu trúc của doanh nghiệp sắp tới nên có 2 phần: thương hiệu và công nghệ. Cần ưu tiên các công nghệ như: CRM, IOT, Integrated & Data analytic… và nhắm đến môi trường di động đầu tiên”, ông Quý gợi ý.

Viễn Thông

Chặn quảng cáo có ngăn chân thương mại điện tử?

Phần mềm chặn quảng cáo ra mắt như một giải pháp dành cho những người tiêu dùng không muốn màn hình của họ lộn xộn bởi các quảng cáo hiển thị. Một chương trình bổ sung hoặc mở rộng của trình duyệt đơn giản có thể loại bỏ các quảng cáo hiển thị và khiến cho trải nghiệm lướt mạng đỡ rối mắt hơn. Phần chặn quảng cáo được giới thiệu lần đầu không ảnh hưởng đến người bán hàng thương mại điện tử nhiều, nhưng các phần mềm phát triển mới hứa hẹn sẽ tạo ra tác động lớn đến ngành này. Lucia Moses từ Digiday đã báo cáo rằng các nhà phát triển phần mềm chặn quảng cáo, các khối óc tài năng đằng sau Adblock Plus, đã chuyển hướng qua việc mua các liên kết từ những trang thương mại điện tử.

Ảnh hưởng Tài Chính của Việc Chặn Quảng Cáo Thương Mại Điện Tử

Người bán hàng thương mại điện tử phụ thuộc vào việc tiếp thị nội dung và mua các liên kết- link để tạo ra doanh thu. Khi phần mở rộng chặn quảng cáo ngăn người tiêu dùng nhìn thấy các liên kết- link này thì người bán sẽ gặp phải những khó khăn về doanh thu. Về cơ bản, phần mềm này làm cho các liên kết thương mại điện tử vô hình với những người đã cài đặt nó vào trình duyệt của họ. Người xem thường chỉ xem nội dung đó, chứ không phải các liên kết có thể đưa họ đến các trang thương mại điện tử của bạn.

Theo trang PageFair, các nhà xuất bản kỹ thuật số đã mất khoảng 22 triệu đô-la Mỹ trong năm 2015 cho các phần mềm chặn quảng cáo. Gần 2 triệu người tiêu dùng sử dụng phần mềm này trên toàn cầu, điều này có nghĩa là nhiều khách hàng tiềm năng của bạn đã cài đặt phần mềm đó.

Các Giải Pháp đối với Công Nghệ Chặn Quảng Cáo

  1. Yêu cầu bên chặn quảng cáo: Nếu bạn muốn dịch vụ đó không ảnh hưởng đến liên kết mua hàng của bạn thì bạn có thể yêu cầu công ty đó hiệu đính các liên kết của bạn và đưa chúng vào danh sách trắng thông qua phần mềm của họ. Tuy nhiên, dịch vụ đó không miễn phí. Trong khi điều này có thể cung cấp một giải pháp khả thi cho các tập đoàn đa quốc gia thì lại không hẳn là khả thi đối với những người bán hàng nhỏ hơn. Nếu bạn có một trang web nhỏ và tự điều hành thì có lẽ bạn không có khả năng bố trí ngân sách của mình để trả cho một chương trình phần mềm chặn quảng cáo.
  2. Hợp tác với Ấn Phẩm: Nhiều ấn phẩm hạn chế quyền truy cập nội dung giữa những người dùng có cài đặt phần mềm chặn quảng cáo. Khi người tiêu dùng đi đến một trang web, họ nhìn thấy một trang splash mời họ lập danh sách trắng trang web đó để đổi lại sẽ xem nội dung của trang. Nếu bạn hợp tác với các trang web như thế này, các liên kết của bạn sẽ được hiển thị vì người tiêu dùng phải tắt phần mềm ngăn chặn của họ để thấy được ấn phẩm đó. Điều này tạo ra một giải pháp trung gian không tốn tiền nhưng đòi hỏi bạn phải nghiên cứu một chút.

Khi Tất Cả Thất Bại, Hãy Chuyển Sang Chiến Lược Của Bạn

Nếu bạn lo ngại về tác động của phần mềm chặn quảng cáo đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử của mình, hãy cân nhắc việc chuyển sang một chiến lược tiếp thị khác. Ví dụ, bạn cũng có thể tập trung nỗ lực vào việc tiếp thị qua email. Do đây là một hình thức tiếp thị cho phép (miễn là bạn nhận được các địa chỉ đăng ký hợp pháp), bạn không phải lo lắng về việc gây phiền toái các khách hàng tiềm năng hoặc loại bỏ các liên kết của bạn ra khỏi nội dung.

Nguồn: payoneer

3 điều về đánh giá & xếp hạng trên Facebook

Rõ ràng việc tối đa hóa hiệu suất của các chiến dịch trên Facebook là không hề dễ dàng với các nhà tiếp thị truyền thông mạng xã hội hay các nhà quản lý.

Lượng tiếp cận tự nhiên đang trên đà giảm dần, vì thế bạn có thể sẽ phải đầu tư vào các mẫu quảng cáo để có thêm nhiều lượt tiếp cận. Và “tuổi thọ” của các bài viết được viết cẩn thận trên trang của bạn đáng buồn là khá ngắn.

Tuy nhiên, các nhà làm marketing trên Facebook vẫn còn nhiều lý do khác để tiếp tục lạc quan. Khả năng người sử dụng đăng các đánh giá và xếp hạng trên các trang của doanh nghiệp địa phương, ví dụ như đưa ra những cơ hội hấp dẫn cho các công ty với hy vọng sẽ nhận được nhiều lợi ích nhất từ mạng xã hội.

Hãy cùng đi sâu hơn vào tác động của đánh giá và xếp hạng của Facebook đối với khách hàng và doanh nghiệp – và những gì bạn có thể làm để đáp ứng chiến dịch marketing của bạn.

1. Việc nhận xét trên Facebook đang phát triển nhanh gấp 4 lần so với việc nhận xét trên các trang web khác

Đội nghiên cứu của chúng tôi tại Review Trackers đã phân tích các xu hướng quanh nhiều site nhận xét khác nhau và các kênh nhận phản hồi, bao gồm Yelp, Google, TripAdvisor và Foursquare.

Chúng tôi tập trung từng chi tiết vào số lượng các lời nhận xét và tốc độ nhận xét (tốc độ mà một lời nhận xét được đưa ra) của 250 nhà hàng trong thời kì 6 tháng.

Liên quan tới sự phát triển trong việc đưa ra nhận xét, Facebook đã làm tốt hơn các trang khác, đưa ra lượt nhận xét nhanh gấp 4 lần so với người đứng thứ 2 là TripAdvisor, Google và Yelp lần lượt đứng thứ 3 và thứ 4.

Điều này có nghĩ rằng người dùng có vẻ thích dùng Facebook hơn so với Yelp. Dĩ nhiên, bạn có thể kích hoạt việc đưa ra việc bình luận và nhận xét trên Facebook. Nếu bạn không thể, bạn phải thay đổi loại trang của bạn thành doanh nghiệp địa phương và thêm thông tin địa chỉ của bạn.

Điều này cũng có nghĩa rằng bạn nên nỗ lực hơn trong việc lắng nghe mạng xã hội. Hãy phản ứng với việc nhận xét cũng nhanh nhẹn như khi bạn đăng bình luận và tin nhắn cá nhân.

Và cũng đừng lo lắng khách hàng nghĩ gì. Hãy sử dụng việc nhận xét trên Facebook như là một công cụ cho marketing chứng thực.

Nên nhớ rằng: Một trang với hàng ngàn lượt thích hoặc những bài đăng câu like nhiều sẽ không thật sự cần thiết cho việc xây dựng độ tin cậy và sự yêu thích với các khách hàng tiềm năng, tuy nhiên một xếp hạng 5 sao xác thực và làm nổi bật những lời nhận xét từ những gì khách hàng hài lòng lại có thể làm được.

2. Các đánh giá trên Facebook đóng vai trò khá quan trọng đối với việc mua hàng

Nếu càng ngày càng nhiều người đăng các đánh giá lên Facebook, thì cũng sẽ kéo theo đó lượng người đọc đánh giá tăng lên.

Những đánh giá này, cùng với các loại nội dung khác trên Facebook, tác động trực tiếp đến khách hàng thông qua các giai đoạn khác nhau của việc mua hàng.

Dưới đây là một số thống kê thú vị (từ một nghiên cứu của Social Media Link và một báo cáo của AdWeek):

  • Giai đoạn nhận thức: 54% người dùng xem facebook – cùng với các website bán lẻ – là nơi phổ biến nhất để biết thêm về các sản phẩm và thương hiệu mới. Facebook cũng là kênh xã hội mà 62% khách hàng tìm đến để tìm hiểu về các doanh nghiệp địa phương.
  • Giai đoạn xem xét: 80% khách hàng nói rằng họ sẽ muốn mua hàng hơn khi họ thấy các đánh giá tích cực trên trang Facebook của doanh nghiệp. Đối với 41% khách hàng, yếu tố quan trọng nhất để được thu hút tới các trang doanh nghiệp địa phương là sự hiện diện của các đánh giá và xếp hạng.
  • Giai đoạn sau mua hàng: Khoảng 66% người dùng muốn chia sẻ kinh nghiệm, suy nghĩ, và ý kiến về việc mua hàng là những người có xu hướng hay chia sẻ trên Facebook. Ngoài ra, sau khi mua hàng, 1 phần 3 người dùng sẽ kết nối với trang doanh nghiệp trên Facebook, trong khi chỉ khoảng 2 trong 10 người sẽ kết nối với doanh nghiệp thông qua website hay cộng đồng của họ.

Việc thành công trên mạng xã hội đòi hỏi khả năng biết lắng nghe; chứ không phải chỉ là xem ai là người “nói to nhất”.

Trong bối cảnh đó, các nhà làm tiếp thị trên Facebook nên nhận ra rằng mạng xã hội không chỉ là một nền tảng đem lại khả năng hiển thị, tương tác và tiếp cận. Nó còn là một nguồn thông tin về các phản hồi của khách hàng cực đáng giá – loại dữ liệu bạn cần để đánh giá tình cảm của khách hàng với thương hiệu và kết nối với khách hàng để mua bán hàng.

3. Facebook cũng có một tính năng tìm kiếm địa phương, và nó dựa trên các đánh giá và xếp hạng

Yelp và Google là những công cụ tìm kiếm ưu tiên điển hình của các nhà làm Marketing, nhưng Facebook sẽ sớm tham gia và danh sách này. Năm ngoái, Mạng xã hội này âm thầm mở ra một tính năng tìm kiếm địa phương gọi là Professional Services, ứng dụng này đã cho phép người dùng có một khả năng tìm kiếm những doanh nghiệp được xếp hạng cao nhất trong một vùng địa lý nhất định.

Kết quả tìm kiếm được xác định bởi các điểm xếp hạng và đánh giá. Như Yelp và Google, Professional Services của Facebook lập ra một danh sách những doanh nghiệp địa phương hàng đầu thông qua số lượng mở rộng các danh mục, từ thợ sửa ống nước và các salon làm đẹp đến các công ty bảo hiểm và các tổ chức làm sự kiện đám cưới.

Trên trang kết quả tìm kiếm, người dùng có thể thêm các bộ lọc dựa vào các danh mục doanh nghiệp nhỏ.

Mặc dù nó vẫn chưa phát triển như Yelp (Professional Services chỉ có bản dùng trên máy tính), nhưng tính năng tìm kiếm địa phương của Facebook này có thể giúp các nhà làm marketing thật sự tận dụng được các đánh giá và xếp hạng để có các lượt tiếp cận tự nhiên.

Nó cũng cung cấp cho bạn thêm một lý do để thường xuyên cập nhật thông tin trên trang Facebook và cải thiện mức độ tìm kiếm liên quan của thương hiệu bạn trên mạng xã hội. Việc xếp hạng đầu trên Professional Services cũng là một cơ hội quảng cáo đáng giá như các cơ hội khác – và bạn lại không cần trả tiền nữa chứ.

Với một sự hiểu biết tốt hơn về việc xếp hạng và đánh giá ảnh hưởng như thế nào đến hành vi khách hàng và danh tiếng thương hiệu, nhà làm Marketing có thể quản lý các chiến dịch và chiến lược hiệu quả hơn – và cũng cung cấp được thêm kinh nghiệm phong phú, hấp dẫn hơn cho người dùng trên Facebook.

Nguồn: Digitalk

Bí quyết tiếp thị nội dung của Netflix

Không chỉ dẫn đầu công cuộc cách mạng nền công nghiệp giải trí, Netflix còn đi tiên phong trong việc sáng tạo cách tiếp thị nội dung (content marketing) mới mẻ và độc đáo cho mỗi chương trình của mình.

Khởi đầu từ một công ty cho thuê đĩa DVD, giờ đây Netflix đã trở thành một trong những trang web về streaming phổ biến hàng đầu thế giới, thống trị internet và tấn công ngành công nghiệp giải trí như một cơn bão. (Thuật ngữ streaming chỉ việc dữ liệu được nén và truyền liên tục, người dùng web không phải chờ tải tập tin về mà có thể xem ngay).

Đến thời điểm hiện tại, nhà cung cấp toàn cầu về phim và chương trình truyền hình streaming này đang sở hữu đến 81 triệu thuê bao từ 190 quốc gia. Gần đây, Netflix đẩy mạnh tấn công vào thị trường châu Á với loạt chương trình dành riêng cho khán giả khu vực này. Điển hình là chương trình sắp ra mắt tại Ấn Độ dựa trên tiểu thuyết nổi tiếng Sacred Games của Vikram Chandra.

Netflix có khả năng sớm trở thành cái tên phổ biến trong từng hộ gia đình trên toàn châu Á với số thuê bao ước tính khoảng 9 triệu vào năm 2020 (theo báo cáo của Media Partners). Bí quyết của họ là đây:

Dám khác biệt

Trong một buổi phỏng vấn hồi cuối tháng Tư với Hollywood Reporter, ông Ted Sarandos – Giám đốc nội dung của Netflix đã chia sẻ: “Với các nguyên tắc cơ bản của truyền hình, tôi có một sự tôn trọng sâu sắc, thậm chí với cả những gì thuộc về truyền thống, nhưng sùng bái thì không”.

Thái độ mạnh dạn thách thức những quy ước cũ này được phản ánh nhiều trong mô hình truyền tải nội dung của Netflix. Trong một cuộc khảo sát năm 2013 tại 16 thị trường, Netflix nhận thấy có đến 73% người xem trực tuyến thích xem một chương trình hàng giờ liên tục (binge-watch) và hầu như không say mê ngay từ tập đầu tiên. Trong khi các trang web streaming khác chỉ ra từng tập một mỗi tuần, thì Netflix quyết định phá vỡ quy chuẩn đó bằng cách phát sóng toàn bộ chương trình một lúc.

Bằng cách làm đó, Netflix cho phép người xem hoàn toàn kiểm soát cách xem cũng như thời gian thưởng thức các chương trình mà họ mong muốn. Thậm chí, điều này còn khiến Netflix trở nên linh hoạt và đổi mới hơn trong cách phát sóng.

Ông Sarandos nhấn mạnh: “Nếu viết về nó thì đầu tiên hãy coi nó là một bộ phim dài 13 giờ. Chúng ta không cần tóm tắt. Chúng ta cũng không cần mấy tình tiết hồi hộp cuối mỗi tập. Bạn có thể viết hoàn toàn khác đi bởi tập tiếp theo sẽ được chiếu ngay lập tức”.

Sáng tạo mang lại giá trị

Ngoài việc khác biệt, Netflix còn tự hào về sự độc nhất vô nhị. Từ Lilyhammer – sê-ri đầu tiên của riêng mình cho đến loạt phim mới nhất – Jessica Jones, Netflix đã tạo ra hàng nghìn thước phim nguyên bản và chuẩn bị tung ra thêm 600 giờ phim như thế nữa trong năm nay.

Thay vì xào nấu lại các nội dung cũ, Netflix sáng tạo nội dung hoàn toàn mới và theo hướng độc quyền. Chính điều này đã khiến Hãng trở nên khác biệt trong hàng tá các trang web về video streaming. Bạn không thể xem sê-ri Orange Is The New Back hoặc Daredevil trên bất cứ trang nào khác ngoài Netflix.

Loạt phim đầu tiên được phát sóng rộng rãi do Netflix sản xuất là House of Cards. Và nó đã thành công đến mức trở thành biểu tượng tiên phong cho một mô hình phân phối nội dung mới, mở đường cho chiến lược kinh doanh của hãng và thiết lập phong cách sản xuất những chương trình tiếp theo.

Ted Sarandos (phải) – Giám đốc nội dung và CEO Reed Hastings của Netflix.

Nội dung là vua

Với nỗ lực cải thiện hệ thống giới thiệu phim, được gọi là Cinematch của mình, Netflix ra mắt Netflix Prize vào năm 2009. Đây là cuộc thi mở rộng nhằm tìm ra thuật toán lọc tốt nhất, dựa theo xu hướng xem yêu thích của khán giả mà dự đoán xếp hạng của người dùng. Giải thưởng cho người thắng cuộc là 1 triệu đô la. Kiến thức chính là sức mạnh, và cùng với nó, Netflix có thể tùy chỉnh và giới thiệu nội dung đến khán giả một cách chính xác hơn.

Tuy nhiên, những câu chuyện mới là điều thật sự chiếm được cảm tình của khán giả, chứ không phải số liệu. Ngoài lượt xem và xếp hạng, nội dung chính là vua. Netflix luôn chú trọng điều này và tiếp tục ưu tiên chất lượng nội dung hơn là số lượng.

Tập trung vào cá nhân, coi khán giả là bạn

Từ chiến lược kinh doanh và mô hình định giá đến việc truyền tải và sáng tạo chiến lược tiếp thị nội dung, Netflix luôn tập trung vào các cá nhân. Netflix nâng sự cá nhân hóa lên một bước mới khi tạo ra đến 10 đoạn phim quảng cáo khác nhau cho sê-ri House of Cards. Mỗi quảng cáo là một trọng tâm riêng. Cái thì đề cao các nhân vật nữ, cái thì đi sâu vào chính trị. Tùy vào sở thích và lịch sử theo dõi chương trình, mỗi khi một người xem nào đó truy cập vào trang web của Netflix thì lại xuất hiện một đoạn quảng cáo khác nhau.

Điều đó cho thấy, cốt lõi trong thành công của Netflix là sự cởi mở và cam kết lắng nghe khán giả. Netflix ưu tiên xây dựng mối quan hệ lâu dài với người xem, biết chính xác cần kể câu chuyện nào, vào khi nào và với ai.

Qua khảo sát, Netflix biết được khán giả mong muốn điều gì và đáp ứng nhu cầu đó. Ví dụ, hãng cho phép một tài khoản bao gồm đến năm hồ sơ cá nhân. Nhưng cho dù có dùng chung tài khoản, thì chương trình yêu thích hoặc lịch sử xem của bạn cũng sẽ không bị lẫn lộn do chương trình đã được cá nhân hóa. Điều này đặc biệt quan trọng, vì 2/3 người sử dụng Netflix dùng chung tài khoản.

Tiếp thị có ý nghĩa và sáng tạo

Sức hấp dẫn mà Netflix tạo dựng xung quanh các chương trình của mình là có thật. Netflix tránh xa cách quảng cáo tiếp thị thông thường là tạo ra những ồn ào nhất thời. Thay vào đó, hãng sáng tạo các ý tưởng tiếp thị của mình theo cách ý nghĩa và phù hợp hơn. Ví dụ điển hình là quảng cáo về Orange is the New Black mà Netflix cho chạy trên The New York Times vào năm 2014.

Netflix cá nhân hóa chương trình yêu thích hoặc lịch sử xem của từng người, dù họ dùng chung tài khoản.

Đó là một bài báo dài 1.500 từ về việc giam giữ nữ từ nhân ở Mỹ, với cả hình ảnh, video, biểu đồ và âm thanh. Bằng cách kết hợp tiếp thị và báo chí, Netflix không đơn thuần là giải trí, mà nó làm nổi bật việc cần thiết phải có một cuộc nói chuyện về việc đấu tranh của các tù nhân nữ.

Netflix cũng nhắm đến việc mang những nội dung mà hãng sản xuất ra ngoài đời thực cho khán giả trải nghiệm. Tại Singapore, nơi mà sê-ri Orange is a New Black cực kỳ nổi tiếng, Netflix đã biến nhà hàng OverEasy thành quán ăn lấy bối cảnh trại cải tạo Litchfield. Quán này phục vụ các món do bếp trưởng nối tiếng người Singapore Bjorn Shen nấu. Đây là có lẽ là nhà hàng đầu tiên phát triển theo hướng này.

Bất cứ nơi đâu, bất kỳ lúc nào

Netflix cũng nhận thấy rằng chúng ta đang sống trong thế giới mà yếu tố di động là tiên quyết. Đó cũng là lý do mà hãng luôn cung cấp các dịch vụ streaming vô cùng linh hoạt và tương thích với tất cả các thiết bị. Bằng việc kết hợp nội dung số cả ở nhà lẫn lúc ra ngoài, Hãng đã thu hút thêm được một lượng lớn khán giả có nhu cầu tìm kiếm sự di động cho các nhu cầu giải trí của mình.

Netflix là một công ty phát triển nhanh và nắm bắt được nhu cầu của khán giả cũng như cách thức phục vụ họ. Hãng không chỉ cung cấp sản phẩm mà còn là trải nghiệm. Vừa là một hãng giải trí nhưng cũng đồng thời là nhà tiếp thị nội dung, Netflix không chỉ giành được sự chú ý của khán giả trên toàn thế giới, mà quan trọng hơn là chiếm được trái tim của họ.

Netflix đã thực sự thay đổi cách chúng ta nhìn nhận tiếp thị nội dung từ xưa đến nay.

Nguồn: DoanhnhanSaiGon

Bán hàng Online – Cách quảng cáo tốt nhất

Theo nhận định của các chuyên gia đến từ Cốc Cốc, Google hay Facebook, xu hướng tiếp cận sản phẩm của khách hàng đang ngày một khác, do đó, các đơn vị kinh doanh không thay đổi sẽ khó mà “sống” nổi trên thị trường.

Minh chứng từ những lần lao đao của 2 gã bán lẻ khổng lồ

Đầu năm 2016, Macy’s – chuỗi bán lẻ thời trang hàng hiệu khổng lồ tại Mỹ đã tuyên bố đóng 100 cửa hàng và sa thải hàng nghìn nhân viên. Trong diễn biến đó, Macy’s đã phải vật lộn với doanh số bán hàng ngày một nghèo nàn, khiến cho giá cổ phiếu của hãng rớt thảm tới 47% trong năm 2015.
Cũng rơi vào tình cảnh tương tự, Walmart – 1 trong những nhà bán lẻ truyền thống lớn nhất thế giới đã tuyên bố đóng cửa 269 địa điểm bán hàng trong năm 2016. Điều này đồng nghĩa với 16.000 nhân viên của tập đoàn sẽ mất việc, trong đó có khoảng 10.000 người Mỹ.
Điểm chung của 2 “ông lớn” bán lẻ trên là họ đều kinh doanh theo mô hình truyền thống. Và việc hàng trăm cửa hàng phải đóng cửa được các chuyên gia nhận định là điều tất yếu. Họ chỉ ra rằng, những minh chứng điển hình trên cảnh báo cách bán hàng truyền thống đang vô cùng khó khăn. Song đây lại chính là cơ hội của kinh tế số.
Câu chuyện trên cũng được ông Nguyễn Thanh Hưng, Chủ tịch Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) dẫn ra tại Diễn đàn Tiếp thị trực tuyến 2016 vừa qua khi nói về xu thế bán hàng trong thời đại hiện nay.
Theo ông Hưng, báo cáo của Bộ Công thương cho thấy, năm 2015, thương mại điện tử bán lẻ của Việt Nam là 4 tỷ USD. Đến 2020 con số này có thể tăng lên 10 tỷ USD. Tuy nhiên, đây vẫn là một con số khiêm tốn bởi tiềm năng phát triển của Việt Nam còn rất nhiều.

Video online sẽ thay thế truyền hình truyền thống

Đại diện VECOM nhấn mạnh, bất chấp sự ra đi của một số website thương mại điện tử như Lingo, Bé Yêu hay Deca… thì thay vào đó có sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp đang tiên phong trong lĩnh vực tiếp thị trực tuyến để hỗ trợ cho thương mại điện tử.
Đây là xu hướng chung của toàn thế giới. Các con số cho thấy tiếp thị trực tuyến có quy mô tăng trưởng nhanh hơn và giúp sức cho thương mại điện tử. Như tại thị trường Mỹ, năm 2015, tiếp thị trực tuyến đạt 60 tỷ USD và dự báo có thể đạt 105 tỷ USD vào năm 2020.
Theo ông Hưng, tại Việt Nam, tiếp thị trực tuyến cũng đang tăng trưởng đáng kể. Nếu quy mô tiếp thị trực tuyến năm 2010 khoảng 26 triệu USD thì đến năm 2015 đã đạt đến con số 329 triệu USD. Đến 2020, con số này có thể tăng lên 1,8 tỷ USD.
Tuy nhiên, để đạt con số này không dễ và cũng không nên chỉ nhìn vào các doanh nghiệp lớn mà quên đi sự đóng góp của mọi cá nhân, doanh nghiệp hộ gia đình. Và ngược lại, các đơn vị kinh doanh nhỏ lẻ cũng cần nhìn nhận tiếp thị trực tuyến đang là yếu tố rất quan trọng trong xu hướng hiện nay.
Cũng trong diễn đàn, đại diện của gã khổng lồ Google ở châu Á – chuyên gia Joe Ruelle cũng cho rằng, xu xướng tại Việt Nam sẽ bỏ truyền hình và tiến tới là tương lai của online video. Do đó, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh tiếp thị trực tuyến qua video thay vì bằng những phương thức đơn giản, cũ như hình ảnh (tĩnh, động, bài viết).
Cũng theo ông Joe, hình thức tiếp thị trực tuyến qua video là cách thức giúp DN không những quảng bá hình ảnh, thương hiệu mà còn là cách để tiếp cận người dùng một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất.
Cũng đồng quan điểm với Joe, ông William Nguyen – Facebook Business Manager cho rằng, video đang là hình thức được các DN tiếp cận tiếp thị rất hiệu quả. Tuy nhiên, các DN, đơn vị cũng cần chú ý đến cách làm, đặc biệt là vấn đề bản quyền. Bởi các quy định về bản quyền đang ngày càng nóng và được quản lý chặt chẽ hơn rất nhiều.
Nguồn: CafeBiz
kỉ nguyên quảng cáo tự động - Programmatic Ads

Kỉ nguyên Quảng cáo tự động (Programmatic Ads) – Phần 1

Khoảng 4 – 6 năm trở về trước, nói đến QC trực tuyến mọi người thường hay nghĩ đến việc đặt banner trên vnexpress, dantri, yahoo, Adnetwork dù đã xuất hiện từ sớm nhưng chỉ là giải pháp cộng thêm, 1 phần vì nhận thức của thị trường, 1 phần vì hiệu quả chưa rõ rệt.

Tuy nhiên, sự thay đổi chóng mặt của các công nghệ targeting, big data, realtime bidding, data tracking và sự bành trướng của Google, Facebook đã khiến cho thị trường trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Loạt bài này giúp mọi người có cái nhìn tổng quan về Quảng cáo trực tuyến từ quá khứ đến hiện tại và thế cục trong tương lai

Phần 1: Thời xuân thu, thế chiến quốc

1. Từ Giao dịch trực tiếp đến Adnetwork

2005 – 2008, internet bắt đầu bùng nổ, hàng loạt web 2.0 xuất hiện, quảng cáo trực tuyến bắt đầu phát triển. Ý niệm lúc đó rất đơn giản là làm sao đặt được banner trên các website lớn để thu hút người truy cập vào website đích. Display Ads ra đời. Cuộc chơi xoay quanh vài nhóm chính: Publisher (Vnexpress, 24h, Yahoo, dantri, vietnamnet… và các site có traffic lớn như 5giay, vatgia, webtretho…); Advertiser (Unilever, Samsung, Nokia….); Media agency (GroupM, Đất Việt…). Cách làm cũng rất thủ công: Advertiser hoặc Agency gọi điện qua Publisher hỏi giá từng vị trí, nếu đồng ý thì gửi banner để Publisher đưa lên. Không có bất kì cam kết nào về hiệu quả. Publisher tự báo cáo kết quả bằng excel. Mọi sự thay đổi diễn ra thủ công và trải qua nhiều bộ phận để kiểm tra, xét duyệt và cập nhật; mọi yêu cầu phải trong giờ hành chính và tối đa 3 lần. Cuộc chiến chủ yếu xoay quanh vấn đề vị trí, giá, chiết khấu và uy tín của Publisher. Lúc đầu banner rẻ như cho, nhưng có những thời điểm sốt không kém bất động sản (muốn được 1 tuần chia sẻ 3 trên trang chủ vnexpress, chi phí cũng vài chục triệu. Nhưng rất nhiều Advertiser vẫn sẵn sàng cạnh tranh để có được vinh dự đó).

Một số Adnetwork tiên phong ra đời từ 2007 để giải quyết bài toán phân phối quảng cáo: tự động hoá khâu mua bán (Advertiser chỉ việc cho biết đối tượng độc giả nhắm tới và kết quả mong muốn, hệ thống tự động làm phần lớn các tác vụ thủ công); tính giá theo hiệu quả mong muốn (impression, clicks); báo cáo minh bạch và theo thời gian thực. Các gương mặt tiêu biểu có Yahoo, Vietads, Lienket247, Innity, Admax…

Mặc dù tiên tiến như vậy nhưng Adnetwork vẫn không thể bứt phá vì rất nhiều rào cản. Thứ nhất là niềm tin (lấy gì đảm bảo kết quả báo cáo là chính xác? làm sao để biết banner được đăng, làm sao để report cho Sếp khi chính mình còn không thấy). Thứ 2 là quyền lực chi phối của Publisher lớn và hình thức Giao dịch trực tiếp khiến Adnetwork trở thành chợ mua bán inventory dư thừa. Thứ 3 là hiệu quả không rõ rệt khi so sánh giữa Adnetwork với Publisher.

2010 chứng kiến sự tăng trưởng ngoạn mục của Innity, Ambient với nhiều format sáng tạo và có hiệu quả (về click). Sự hợp tác chặt chẽ với GroupM cũng giúp Ambient nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của Adnetwork. Một gương mặt đình đám khác là Admicro với việc sở hữu inventory cực lớn từ các website hàng đầu như dantri, cafef, kenh14… Nhiều Adnetwork tầm trung bắt đầu suy thoái do không đủ sức cạnh tranh, nhưng cũng đồng thời xuất hiện rất nhiều Adnetwork nhỏ dựa trên các Adserver như OpenX. Các Advertiser nhỏ bắt đầu xem Adnetwork là sự lựa chọn hàng đầu vì tính linh hoạt về giá cả và quản lí. CPC được đẩy xuống cực kì thấp (1500vnd/click) càng thúc đẩy Advertiser mạnh tay thử nghiệm.

Hầu hết Adnetwork trong giai đoạn này đều giải quyết được các bài toán cơ bản:

  • Targeting: contextual targeting (theo nội dung website hoặc bài viết), placement targeting (theo vị trí trên từng website)
  • Ad serving: gắn code lên website và tự động phân phối banner. Các hình thức banner cũng rất đa dạng, từ statistic đến interactive và cả video
  • Tracking: dựa trên hệ thống có sẵn với độ lệch dưới 30% so với Google analytics, hoặc third-party tracking qua Mediamind, Eyeblaster
  • Management & Report: Advertiser có thể tự quản lí, tối ưu campaign và đọc report realtime

Tuy có sự khác biệt về định dạng, Inventory nhưng không có sự khác biệt lớn về công nghệ giữa các Adnetwork. Thị trường vẫn mở cho nhiều người chơi, cho đến khi Google bắt đầu xuất hiện.

2. Từ Adnetwork đến SSP, DSP

Năm 2012, Google chính thức đem Google Display Network (GDN) vào VN. Tên tuổi, cộng với sức mạnh của Google đã nhanh chóng thay đổi hoàn toàn cuộc chơi. Những Adnetwork nhỏ không có sự khác biệt hầu như không thể cạnh tranh. Các Publisher vừa háo hức gia nhập GDN (để tăng doanh số), vừa sống trong sợ hãi (vì không còn được kiểm soát giá). Nhưng nhờ có GDN mà Advertiser được phổ cập sâu rộng về Adnetwork, miếng bánh mở rộng đáng kể, và thị trường đi vào chiều sâu hơn.

Bên cạnh GDN, Google cũng giới thiệu sản phẩm Ad-exchange, 1 SSP tiêu biểu. Về cơ bản, SSP giống như 1 đầu nậu nông sản, thu gom hết Inventory dư thừa để bán cho chợ đầu mối (DSP), hoặc siêu thị (Adnetwork). Vì visit nếu không được khai thác ngay thời điểm phát sinh thì sẽ trở thành vô giá trị, nên SSP giúp cho các Publisher thanh lý được khối lượng lớn Inventory dư thừa, dù với giá rẻ mạt.

Trong 1 diễn biến khác, DSP cũng ra đời để giải quyết nhu cầu của Advertiser: mua được khối lượng Inventory lớn tức thì với chi phí hợp lí nhất. DSP sẽ tiếp nhận yêu cầu mua hàng của Advertiser rồi kết nối với tất cả Adnetwork, SSP trong hệ thống để gom Inventory phù hợp và phân phối QC theo hình thức bidding. Điều kì diệu là tất cả đều làm tự động, tức khắc, giống như mua bán chứng khoán. Đó chính là Realtime bidding (RTB).

  • Bidding: trước đó tất cả Adetwork ở VN đều tính giá cố định (ví dụ 1500 vnd/ CPC). Tuy vậy với DSP, mọi thứ sẽ là bidding – giá cả phụ thuộc vào sự cạnh tranh giữa các Advertiser và chất lượng quảng cáo. Adveritser có cơ hội để tối ưu nhằm hạ giá thành xuống mức thấp chưa từng có (vài trăm VND/ click). Tất cả những điều này diễn ra ngay tức khắc (realtime)

Một kĩ thuật mới rất được ưa chuộng xuất hiện thời điểm này là Retargeting (tiếp thị lại). Ý niệm là: khi người dùng thấy mẫu QC, click vào để đi đến website, nhưng vì 1 lí do nào đó không “hành động” (mua hàng, điền mẫu đăng kí…), nếu để mất dấu họ thì xem như QC đã lãng phí; nhưng nếu tiếp tục giăng banner đeo bám họ trên những nơi khác họ online bằng những thông điệp “mời gọi” (giảm giá, tặng quà…) thì khả năng họ quay lại và hành động sẽ cao hơn. Ý niệm lãng mạn này khi triển khai thực tế đem lại hiệu quả đáng ngạc nhiên: tăng conversion trung bình lên khoảng 30% so với các hình thức khác

  • Dynamic retargeting: sẽ còn lợi hại hơn nếu việc retargeting diễn ra ngay tức khắc khi người dùng còn chưa nguôi ham muốn. Ví dụ tôi vừa xem chiếc điện thoại iPhone 6 trên Lazada, nhưng chưa quyết định mua và rời website, thì ngay tại thời điểm tôi vừa qua website khác, lập tức banner giảm giá 10% xuất hiện, hành vi mua hàng có thể được thúc đẩy nhanh chóng. Nếu không, rất có thể tôi sẽ đi mua iPhone 6 cũ, hoặc mua iPhone 5, hoặc không còn nhu cầu mua nữa; lúc đó mà retargeting khó có hiệu quả

Như vậy, xuyên suốt 1 giai đoạn từ 2005 – 2014, Adnetwork đã đóng vai trò trung tâm trong quá trình phát triển QC trực tuyến ở VN. Có rất nhiều cái tên thành công rực rỡ như Admicro, Ambient… Có những cái tên chỉ còn là hoài niệm như Pixel, Admax… Có những cái tên dần mờ tỏ. Nhưng họ đã hoàn thành sứ mệnh “Digital transforming”: chuyển đổi các hình thức QC truyền thống lên môi trường Digital, và tạo tiền đề cho 1 kỉ nguyên bùng nổ sắp tới đây – kỉ nguyên của Programatic Ads.

Để kết thúc phần này, tôi xin giới thiệu slide “Kỉ nguyên của Programatic Ads” củaNguyễn Xuân Đông, PGĐ Moore – 1 cty đã chứng kiến suốt chiều dài lịch sử phát triển rực rỡ nhất của Adnetwork. Những câu chuyện của Đông chính là chất liệu và cảm hứng để tôi viết nên phần 1 mang nhiều sự hồi tưởng.

Hẹn các bạn trong phần 2, hướng đến tương lai kì vĩ hơn: Kỉ nguyên của Programmatic Ads

Nguồn: Digitalk

Quảng cáo kiểu mới – quả ngọt ai dám thử

Vấn đề tranh cãi nhức nhối trong ngành quảng cáo – sáng tạo là chúng ta muốn đẩy sự sáng tạo đi đến đâu? Phía khách hàng – tức là các doanh nghiệp có thương hiệu cần được quảng cáo – thường lo lắng rằng quảng cáo độc đáo, khác biệt quá người tiêu dùng sẽ không hiểu. Do đó để an toàn thì cứ làm giống như người khác đã làm, thậm chí giống đối thủ cạnh tranh cũng được.

Còn những đơn vị tư vấn quảng cáo (còn gọi là agency) thì dùng rất nhiều nỗ lực để thuyết phục khách hàng phải chấp nhận rủi ro, cổ xuý những ý tưởng độc đáo. Tôi đồng ý với việc thúc đẩy khách hàng chấp nhận điều mới lạ, dám làm điều khác biệt, thế mới là bản chất của quảng cáo; nhưng tôi không đồng ý với sự khiêu khích phải chấp nhận rủi ro. Vì khi bạn quản lý và làm chủ một doanh nghiệp bạn sẽ hiểu sự rủi ro là thế nào.

Tôi đồng ý với việc thúc đẩy khách hàng chấp nhận điều mới lạ, dám làm điều khác biệt, thế mới là bản chất của quảng cáo; nhưng tôi không đồng ý với sự khiêu khích phải chấp nhận rủi ro.

Quảng cáo ở Việt Nam thường bị chê là dở, quay không đẹp như quảng cáo nước ngoài. Mà nước ngoài ở đây là người hàng xóm Thái Lan đấy thôi. Tôi thấy đây là sự so sánh khập khiễng vì ngành công nghiệp quảng cáo sáng tạo Thái Lan đi trước chúng ta gần 30 năm. Quảng cáo của họ đâu quá cao siêu mà sao hay thế. Dân Việt Nam chẳng hiểu tiếng Thái mà vẫn xem, chia sẻ và bình luận rất nhiều. Người tiêu dùng Thái thông minh hơn người tiêu dùng Việt? Quảng cáo bảo hiểm nhân thọ nhưng không thấy nói mua đi để được đảm bảo an toàn tài chính khi bạn gặp tai nạn hay bệnh hiểm nghèo; quảng cáo trà xanh thì không thấy cánh đồng trà tẻ nhạt với những lá trà biến hình bay vào chai nhựa; quảng cáo café nhưng không thấy uống rồi làm việc tỉnh táo cả ngày. Họ làm quảng cáo tinh tế hơn và không cần sa đà vào giải thích giá trị lý tính của sản phẩm. Và khán giả Việt Nam xem – thích – và bấm nút chia sẻ. Thế là thành viral. Như vậy người tiêu dùng Việt đã đủ thông minh hơn chưa?

Từ trước đến nay dân trong nghề chúng tôi thường đùa rằng quảng cáo cho những ngành hàng dành cho bà nội trợ thì phải dùng “kitchen logic” tức là tư duy ngô nghê và dễ hiểu của dưa cà mắm muối. Hàng loạt quảng cáo nước mắm, nước tương, dầu ăn, bột nêm, mì gói… hầu như đều có bối cảnh bắt đầu từ căn bếp, tiếp đến là cảnh nấu nướng, cảnh những món ăn hấp dẫn, cảnh cả gia đình cùng hít hà và vỗ tay khen mẹ nấu ngon. Tất cả đều nhằm để diễn đạt trực diện lợi ích lý tính và cảm tính của sản phẩm. Thế nên mỗi khi thấy có quảng cáo nào “dám” đi ngược với công thức đóng đinh đấy thì chúng tôi cũng thấy mừng. Chẳng hạn như gần đây cộng đồng mạng đã lan truyền quảng cáo của một nhãn hàng dầu ăn nổi tiếng. Những tưởng sẽ lại thấy cảnh nấu nướng, tôm gà được chiên vàng rộm trong chảo dầu và cả gia đình cùng tán thưởng tài năng của mẹ. Không phải vậy, đoạn phim mở đầu là cảnh dàn nhạc giao hưởng đang say sưa với bản nhạc hoà tấu bỗng nhiên mất tập trung từ các nhạc công cho đến vị nhạc trưởng. Thủ phạm được phát hiện ra là mùi thơm của thức ăn khiến ban nhạc sao nhãng, và thủ phạm cuối cùng chính là vị đầu bếp tinh nghịch. Đoạn phim này cán mốc hơn 1 triệu lượt xem chỉ sau một tháng, tất nhiên không chỉ bởi tên tuổi của hai cây hài Hoài Linh, Chí Tài mà bởi cách kể chuyện dí dỏm, giàu xúc cảm của một ngành hàng tưởng là không thoát khỏi “kitchen logic”.

Mạng xã hội đã cởi trói rất nhiều cho những người làm nghề quảng cáo – sáng tạo: độ dài phim không giới hạn, ngân sách không quá đồ sộ, đo lường được ngay phản ứng của khán giả. Có thể nói mạng xã hội là sân chơi công bằng cho bất cứ thương hiệu nào, dù là thương hiệu đình đám trên thị trường hay là một thương hiệu be bé vừa mới chào đời, dù kinh phí đầu tư tiền tỉ hay được thực hiện kiểu “cây nhà lá vườn”. Trên thực tế, quảng cáo nếu dám vượt qua “vùng an toàn” (comfort zone), phá vỡ tư duy lối mòn, chắc chắn sẽ nhận được hiệu ứng cộng hưởng vượt ngoài mọi chỉ tiêu mong đợi (KPI).

Lại nói đến quảng cáo dầu ăn sáng tạo kể trên, bên cạnh kết quả thu về hơn 1 triệu lượt xem sau một tháng, hàng loạt nhóm làm phim hài nổi tiếng trên mạng xã hội như được tiếp thêm cảm hứng để phóng tác (cover) lại đoạn phim trên, theo một phong cách vui nhộn với nội dung vô cùng sáng tạo, đã tiếp tục tạo nên những cơn sốt trên mạng. Như vậy, cách làm quảng cáo theo “kiểu mới” đã thay đổi hoàn toàn cục diện, từ quảng cáo “thụ động” truyền thống chuyển sang quảng cáo “tương tác” với sự “tiếp tay” nhiệt tình của người tiêu dùng.

Do đó nhiều doanh nghiệp đã không ngại khám phá cơ hội mới này. Dù chỉ mới xuất hiện một vài quảng cáo dám vượt qua sự an toàn, “ai nói sao mình cũng nói vậy”, tôi tin rằng người tiêu dùng – khán giả Việt Nam đã sẵn sàng cho những sản phẩm quảng cáo độc đáo và tinh tế. Hy vọng nhiều khách hàng và công ty tư vấn quảng cáo sẽ mạnh dạn hơn trong cách làm truyền thông của mình.

Nguồn: Brands Vietnam

Mô hình PESO trong PR

Là chuyên gia PR trong thế giới công nghệ không ngừng cập nhật và thay đổi này, tốt hơn là bạn cũng phải thay đổi.

Cách đây 10 năm, tôi chỉ biết tới PEST hay SWOT trong các bài học PR trên giảng đường đại học. Tất nhiên, không phải những mô hình này đã trở nên lạc hậu, nó vẫn còn có giá trị ứng dụng. Nhưng để thành công hơn, không chỉ có vậy!

Dẫu PR không phải là Marketing hay Quảng cáo, nhưng thật điên rồ nếu có ai vẫn tin rằng PR không nằm trong chuỗi hay một chương trình Marketing nào đó. PR là một phần của Marketing, một phần của việc thúc đẩy bán hàng, một phần của dịch vụ khách hàng. PR hoàn toàn có thể tạo ra những xu hướng, kích thích hành vi mua, nuôi dưỡng sự hiểu biết và ra quyết định mua của công chúng. PR cũng có thể thu hút những tình nguyện viên mới. Và tất nhiên, PR cũng cung cấp rất nhiều giá trị cho những đối tượng công chúng khác nhau.

Nhưng vấn đề là PR của ngày hôm nay, của những năm 201x này, sẽ có thể làm được những điều thú vị, thúc đẩy việc kinh doanh hơn là chỉ như một chất xúc tác cho việc tăng cường nhận diện thương hiệu nếu có thể sử dụng và áp dụng theo mô hình PESO.

Mô hình tích hợp PESO là gì?

PESO là 4 loại hình truyền thông – paid (trả tiền), earned (lan truyền), shared (chia sẻ) và owned (sở hữu) – được kết hợp lại cùng nhau.

Paid media (Truyền thông trả tiền): trong trường hợp này, không đề cập đến những quảng cáo thương mại tốn kém, độc đáo hay là các mẫu print-ads. Truyền thông trả tiền trong một chương trình PR là các quảng cáo, bài viết được trả tiền trên các kênh truyền thông xã hội, các nội dung được tài trợ hoặc email marketing..

Earned media (Truyền thông lan truyền): chính là những gì thảo luận trên các kênh truyền thông hoặc báo chí. Tên của bạn xuất hiện trong các ấn phẩm, bài báo, tin tức truyền hình hoặc các công bố thương mại… Đó là những nội dung “hữu hình”, là kết quả thu được của PR.

Shared media (Truyền thông chia sẻ): chính là các kênh truyền thông xã hội. Bộ phận marketing hay dịch vụ khách hàng sẽ có nhiệm vụ sử dụng những phản hồi hay những câu chuyện có lợi cho thương hiệu xuất hiện trên các kênh này. Tổ chức sẽ chia sẻ nó như là một nguồn thông tin chính thống để truyền thông cho nội bộ và cả bên ngoài tổ chức.

Owned media (Truyền thông sở hữu): hay còn được hiểu như là nội dung bạn sở hữu, có thể xuất hiện trên website, blog của bạn. Bạn kiểm soát các thông điệp và kể những câu chuyện theo cách mà bạn muốn.

dimaco-300816-001

Sử dụng mô hình PESO như thế nào?

Khi tích hợp 4 loại hình truyền thông nói trên, bạn sẽ thấy bạn cần phải có sự tương tác với các KOLs, với các đối tác hay những chương trình xúc tiến để mở rộng. Nội dung truyền thông không chỉ là những gì bạn có từ trong nội bộ nữa, nó vượt ra ngoài ranh giới đó. Và khi mô hình PESO được thiết lập, nó sẽ giúp bạn thiết lập được các quyền hạn.

Nếu cần phải có nội dung (owned media) và bạn sẽ sử dụng shared media để phân phối nó, paid media để lan toả nó và earned media để làm nó nổi bật nó.

Shared media có thể không phù hợp với tất cả mọi thương hiệu hay doanh nghiệp, nhưng có một vài ưu điểm nếu bạn sử dụng nó và “test” chính những công chúng của mình.

Paid media thanh toán phụ thuộc và mức độ lan toả thông tin của bạn, từ quảng cáo cho tới tài trợ các sự kiện hay trả cho những KOLs.

Earned media được áp dụng khi bạn xây dựng mối quan hệ với các KOLs, nhà báo hay những người có ảnh hưởng khác. Tạo ra một danh sách những người có ảnh hưởng, theo dõi họ.

Đo lường PESO như thế nào?

Bạn cần xác định các số liệu PR và đảm bảo chắc chắn nó sẽ làm việc. Đối với mỗi loại phương tiện truyền thông, những số liệu sẽ khác nhau.

Paid media có thể đo lường qua Google Adwords, landing pages có bao nhiêu lượt xem, tương tác, tải nội dung hay mở email của bạn, lượt fans hay followers mới từ những nội dung được trả tiền v.v.

Earned media đo lường qua những mối quan hệ mà bạn có – với người ảnh hưởng, phóng viên hay blogger. Đo lương hiệu quả và sự ảnh hưởng thông qua việc xem xét các số liệu như: mục tiêu ảnh hưởng (1 KOLs có 10,000 followers có số điểm ảnh hưởng như thế nào với 1 KOLs chỉ có 1,000 followers, vì rất có thể người có 1,000 followers lại mang tới 10% người mua hàng theo họ trong khi người có 10,000 followers thì có có 1% mà thôi), web traffic từ những câu chuyện liên quan tới thương hiệu của bạn thế nào, hay là các blog hay những kênh nào đã mang visitors đến site của bạn, sự tăng trưởng những công chúng mới v.v.

Shared media đo lường dựa trên số lượng fans và followers, xu hướng tăng giảm sẽ giúp bạn nhận ra những gì bạn nên tập trung hay những gì tạo ra hiệu quả. Hãy sử dụng nhiều hơn các đại sứ thương hiệu, cố gắng có các nội dung “call to action”, sử dụng các URLs độc đáo, coupons, mã giảm giá, hoặc thậm chí là cả đường dây nóng chỉ để phục vụ cho kênh này.

Owned media thì khá khác biệt, vì nó là tích hợp của cả 3 loại phương tiện truyền thông nói trên. Để đo lường, hãy chú ý tới thời gian mà các visitors ghé thăm website của bạn, bounce rate v.v. Nếu bạn có những kênh truyền thông riêng, hãy giới thiệu nó qua email marketing. Khi bạn tích hợp nội dung vào những chiến thuật truyền thông trả tiền, bạn có thể kiểm tra được hiệu quả, như là lượt đọc, tải hay chia sẻ. Khách hàng có tải nội dung không? Họ có đọc ,xem hay nghe ít nhất một lần không? Họ có chia sẻ với cộng đồng không? Ai là người chia sẻ nội dung của bạn? Những điều này rất quan trọng vì nó sẽ cung cấp cho bạn một cái nhìn cơ bản về những khách hàng mới, công chúng mới và bạn biết bạn đang làm gì.

Bạn thấy không? Rõ ràng những hoạt động nói trên đều có ảnh hưởng tới bán hàng.

Nếu bạn bắt đầu với nội dung bạn tạo ra và sử dụng mô hình PESO để phân phối nó, nó có thể giúp bạn tìm ra con đường thành công.

Đi bộ, chạy bộ rồi chạy. Sau đó, rất có thể bạn cũng có thể bay được.

Nguồn: makeitnoise

6 bí quyết để tăng lượng tiếp cận tự nhiên trên Facebook

Bạn thấy bài viết trên Fanpage trên Facebook của mình bỗng có lượng tiếp cận tự nhiên kém hơn trước? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn khắc phục điều này!

Vào cuối tháng 6, Facebook tuyên bố rằng họ sẽ thay đổi thuật toán trên New Feed để ủng hộ những nội dung tin tức từ gia đình, bạn bè của người sử dụng, và một số nội dung chọn lọc từ nhà quảng cáo, những người đã dựa vào Facebook để quảng bá độ nhận diện thương hiệu và kéo traffic về website hoặc blog của họ.

Khi Facebook thừa nhận rằng họ đã dự đoán lượng tiếp cận và lượng traffic trên một số trang, nhiều nhà quản trị Fanpage đã nhận thấy một sự suy giảm đáng kể lượng người tiếp cận khi Facebook áp dụng sự thay đổi thuật toán. Ngay sau khi công bố, Buzz Sumo đã công bố dữ liệu mà họ đã thu được sau khi xem xét 25 triệu bài viết trên Facebook của 10.000 nhà xuất bản hàng đầu đã đăng trong năm ngoái và nhận thấy rằng lượng chia sẻ các bài viết đã giảm một cách đáng kể.

Bạn cũng có thể dễ dàng nhìn thấy rằng sau khi Facebook thay đổi thuật toán, những nội dung bạn đăng trên Fanpage có một sự thay đổi lớn lượng người tiếp cận, lượng tương tác cũng như lượng traffic đã bị giảm đi đáng kể.

Dưới đây là những bí quyết bạn có thể áp dụng để tăng lượng tiếp cận và lượt tương tác cho bài viết của bạn trên Facebook.

1. Thực sự hiểu khách hàng của bạn

Lời khuyên đầu tiên của Facebook để thúc đẩy lượng tiếp cận các bài viết là“Những bài viết đó phải đủ thu hút để người xem quan tâm và chia sẻ với bạn bè của họ”.

Lưu ý trên của Facebook là một trong số những điều mà những người quản trịFanpage luôn phải chú ý. Nếu muốn bài viết của bạn được nhiều người quan tâm và chia sẻ, điều đầu tiên bạn cần chú ý là nội dung của bài viết phải thực sự hấp dẫn người đọc. Tất nhiên, khán giả sẽ thay đổi những thứ họ thích, hãy chắc chắn rằng bạn đang theo dõi những sở thích này thường xuyên và điều chỉnh nội dung khi cần thiết.

2. Tránh sử dụng những tiêu đề câu kéo người dùng nhấp vào bài viết bạn chia sẻ

Những nhà xuất bản hoặc người làm Marketing thường dùng cách đặt những tiêu đề giật gân để gây sự chú ý với người dùng, thu hút các nhấp chuột vào một thời điểm nhất định. Đó là một quyết định sáng suốt nếu bạn thực sự có thể cung cấp những thông tin đó như theo tiêu đề. Nhưng thường, đó chỉ là những cách giật tiêu đề để thu hút sự chú ý nhất thời.

Facebook hiện đã sử dụng một hệ thống phát hiện những tiêu đề giật gân trong nội dung bài viết, sau khi một bài viết được chia sẻ, Facebook sẽ kiểm tra các Fanpage, các trang web liên tục đăng bài với nhiều chủ đề và giảm thiểu sự hiển thị bài viết trên New Feed người dùng.

Facebook cũng khuyến khích những nhà xuất bản sử dụng tiêu đề bài viết có thông tin thích hợp, về cơ bản, không được spam hoặc lừa dối trong nội dung bài viết và không chỉ tập trung vào lượng nhấp chuột vào bài viết, dưới đây là một ví dụ Facebook đưa ra về những điều nào-không-được-phép-làm.

3. Sử dụng hashtags

Hashtags hiện nay đã dần trở lên quan trọng nhất trên Twitter và Instagram, nó cũng là một trong những yếu tố giúp tăng phạm vi tiếp cận trên Facebook. Giống như trên Twitter hay Instagram, khi mọi người nhấp chuột vào hashtags trên Facebook hoặc tìm kiếm hashtags đó, họ sẽ thấy những bài viết đã chứa hashtags đó, cho phép người dùng tìm nội dung hoặc chủ đề có liên quan họ quan tâm.

Nếu bạn đang tìm kiếm để tham gia một cuộc trò chuyện hãy sử dụng những hashtags phổ biến để thúc đẩy cuộc trò chuyện đó. Nếu bạn đang tìm kiếm nội dung cho thương hiệu và bài viết của bạn, hãy tạo một hashtags cho riêng bạn mà đại diện cho chủ đề đó và sử dụng nó bất cứ đâu liên quan.

Ngoài ra, bạn cũng có thể sử dụng Hashtagify.me để tìm kiếm một vài ý tưởng, nhưng về mặt kỹ thuật, công cụ này chỉ dành cho những hashtag trên Twitter và Instagram.

Khi viết hashtags, nếu bạn đang dùng một cụm từ, hãy chú ý viết hoa chữ đầu tiên của mỗi từ để dễ đọc, hiểu và ghi nhớ, tránh sử dụng những khoảng trống hoặc dấu chấm câu. Thêm nữa, hãy chắc chắn rằng bạn có thể hiểu được ý nghĩa của bất kỳ hashtags nào bạn có ý định sử dụng.

4. Sử dụng những tính năng đề cập, gắn thẻ để tìm đối tượng mới

Tính năng đề cập, gắn thẻ trang khác cùng với người sử dụng trong bài viết là một cách tốt để tiếp cận được nhiều người hơn. Không chỉ làm những người bạn gắn thẻ và nhắc đến trong bài viết chú ý hơn mà họ cũng buộc phải tương tác, chia sẻ bài viết của bạn với bạn bè của họ nếu bài viết của bạn thực sự là chủ đề người dùng quan tâm.

Một chú ý nhỏ là khi bạn gắn thẻ người dùng và nhận được bình luận từ bất cứ ai, hãy sử dụng tính năng trả lời tự động với tên của họ giống như nhắc đến và giữ cho cuộc hội thoại được tiếp tục, đây là một bí quyết giúp bài viết của bạn nhận được sự quan tâm của người dùng hơn.

5. Giữ các video gốc

Nhiều nhà xuất bản thường xuyên đính kèm cả hình ảnh, nội dung video trong bài viết của họ, đây cũng là cách để thu hút lượt tương tác.

Nhưng video gốc cũng có thể mang đến lượt tiếp cận lớn.Video nguyên bản là một video trực tiếp tải lên mạng xã hội và sau đó tự động phát trên News Feedcủa người dùng.

Video truyền thống sẽ thực sự tốt với Fanpage trên Facebook, giúp loại bỏ các rào cản với sự tương tác, làm mọi người dễ chia sẻ hơn, do đó, sẽ mở rộng lượng tiếp cận bài viết.

Ví dụ từ Microsoft đã chứng minh điều này, chỉ trong 1 giờ đăng tải, video đã nhận được nhiều hơn 3000 lượt xem, 8 lượt chia sẻ và 54 lượt likes.

6. Khuyến khích nhân viên trong doanh nghiệp chia sẻ và tương tác với bài viết

Nhân viên nên là một trong những người like Fanpage của chính doanh nghiệp mình. Khuyến khích họ tham gia tương tác trên trang Fanpage của Facebookhoặc chia sẻ bài viết của Fanpage để giúp tạo ra một lượng tiếp cận hoặc chia sẻ tự nhiên nhiều hơn. Bạn cũng có thể gửi 1 email nhắc nhở hàng tuần cho các nhân viên trong doanh nghiệp biết về một số bài viết tốt để họ có thể chủ động tương tác với bài viết.

Biên tập: Infolinks Việt Nam

Quảng cáo Sáng tạo trong bản thân Vấn đề

Cùng với xu hướng cạnh tranh ngày càng gay gắt để thu hút sự chú ý của thị trường, những nhà sáng tạo quảng cáo thường tìm đến những cách thức truyền thống để truyền tải các thông điệp marketing, một cách trực quan hoặc phi trực quan (qua ngôn ngữ). “Tư duy ngoài khuôn mẫu” là một lời khuyên thường thấy.

Để khuyến khích cách tư duy này, việc bơm những chủ để ngẫu nhiên vào quá trình lên ý tưởng là một cách làm quen thuộc. Và trong những buổi brainstorm, những ý tưởng càng điên rồ thì càng tốt.

Vậy nên khá là ngạc nhiên khi nghiên cứu tập trung vào “trong khuôn mẫu” hơn là “ngoài khuôn mẫu” lại khám phá ra sáu nhóm quảng cáo được định nghĩa rõ ràng và thường được gọi là các “Mẫu”. Những mẫu này sẽ được miêu tả cụ thể, nhưng trước tiên chúng ta cần nhắc qua về bối cảnh ra đời của chúng trước đã.

Jacob Goldenberg và David Mazursky là hai giáo sư chuyên ngành sáng tạo và marketing với công việc chính là tìm kiếm những quy tắc đồng nhất, có thể nhận dạng được và có thể đa dạng hoá được trong việc cải tiến sản phẩm. Họ kết thúc công việc của mình vào đầu những năm 2000 với những quan sát được mở rộng sang những phạm vi ngoài dự tính ban đầu. Những quan sát đó đã được miêu tả trong các tạp chí như Science, Journal of Marketing Research, Management Science và Marketing Science. Những phương pháp trong công trình của họ cũng đã được Philips Consumer Electronics, Ford Motor Co., Ogilvy & Mather Worldwide, Coca Cola và nhiều hãng khác sử dụng.

Điểm cốt lõi trong các Mẫu Sáng tạo của Goldenberg và Mazursky là ý tưởng rằng những phương pháp hướng sâu vào vấn đề nhằm tìm kiếm những giải pháp sáng tạo thì cho ra kết quả hiệu quả hơn và có khả năng trở nên tiềm năng hơn là những phương pháp nhìn ra ngoài phạm vi của chúng. Họ mở rộng nghiên cứu hướng sản phẩm sang quảng cáo bởi đặc thù hoạt động sáng tạo những ý tưởng truyền thông marketing cũng chính là việc loại bỏ những giới hạn, trì hoãn những phán xét và lên ý tưởng bằng những phương tiện tự do liên tưởng với bất kỳ suy nghĩ nào nảy ra trong đầu – chính là những đặc trưng của việc nhìn bên ngoài khuôn mẫu được ca ngợi trong giới marketing nhưng lại có những khác biệt đáng kể với lý thuyết Mẫu của họ.

Phân ngành quảng cáo cũng có những nền tảng nhất định để nghiên cứu có thể dễ dàng tiếp cận – một sân chơi rộng lớn nơi những cuộc thi về sáng tạo truyền thông marketing được tổ chức hàng năm. Một đợt chọn mẫu và đánh giá được thực hiện vởi những chuyên gia quảng cáo về 200 quảng cáo có lượt bình chọn cao nhất từ các cuộc thi tiết lộ rằng 89% những quảng cáo được yêu thích đều thuộc vào sáu Mẫu Sáng tạo riêng biệt, và trong một khảo sát khác bao gồm những quảng cáo không đạt giải, chỉ 2.5% số quảng cáo phù hợp với một Mẫu Sáng tạo bất kỳ.

Các cuộc thi quảng cáo thường bị chỉ trích vì đặc thù các cuộc thi này chỉ đánh giá dựa trên mức độ sáng tạo mà không màng đến các mục tiêu marketing khả thi. Tuy nhiên, năm này qua năm khác, các công ty trên toàn thế giới vẫn nhờ đến các hãng quảng cáo để giúp họ đạt được các mục tiêu marketing, vậy nên hãy giả định rằng cái mà những chuyên gia hàng đầu trong ngành quảng cáo cho là tốt nhất thì chính là những cái có giá trị để học hỏi.

Trong phương pháp luận Mẫu Sáng tạo, dưới đây là những phương pháp tốt nhất của tốt nhất:

Tương đồng Hình ảnh

Những quảng cáo phù hợp trong Mẫu này thay thế yếu tố trực quan cốt lõi thành đại diện mang tính biểu tượng mà chuyển tải những ý nghĩa khác cho quảng cáo đó. Đây là Mẫu phổ biến nhất từ trước đến nay, gấp đôi số lượng của bất kỳ Mẫu nào trong những Mẫu còn lại.

Tình huống Đỉnh điểm

Những quảng cáo phù hợp trong Mẫu này sử dụng những tình huống phi thực tế để nhấn mạnh tầm quan trọng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong quảng cáo đó. Tình huống có thể phản ánh một vật thay thế phi lý cho sản phẩm, mà thay vì sử dụng sử dụng, nhân vật quảng cáo sẽ làm một hành động cũng phi lý để đạt được kết quả tương tự, hoặc phóng đại một cách bất thường khả năng hoặc giá trị của sản phẩm. Thường là yếu tố hài hước có vai trò hỗ trợ trong Mẫu này.

Kết quả

Những quảng cáo phù hợp trong Mẫu này mô tả những tình huống mà sự hiện diện của sản phẩm được cường điệu hoá bằng cách xuất hiện một cách khoa trương và dẫn đến những kết quả phi thực tế sau khi sử dụng sản phẩm đó, hoặc quảng cáo mô tả những hậu quả được phóng đại quá mức nếu không sử dụng sản phẩm.

Cạnh tranh

Những quảng cáo phù hợp trong Mẫu này đặt sản phẩm vào tình huống phải cạnh tranh với một sản phẩm khác ở một nhóm khác hoặc là vật thể khác hoặc ở những sự kiện không liên quan, ví dụ như cuộc đua giữa một chiếc ô tô và viên đạn, hoặc để thể hiện việc sử dụng sản phẩm một cách kỳ diệu theo cái cách không hề liên quan đến sản phẩm.

Thí nghiệm Tương tác

Những quảng cáo phù hợp trong Mẫu này hướng người xem đến một trải nghiệm tương tác với một thực thể xuất hiện trong quảng cáo; hoặc bằng tương tác vật lý thực tế hoặc làm cho người xem phải tưởng tượng ra sự tương tác.

Thay thế Chiều kích

Những quảng cáo phù hợp trong Mẫu này phóng đại kích thước của sản phẩm để phù hợp với bối cảnh nó xuất hiện. Có vài cách thức để thực hiện điều này: bằng cách mở rộng hoặc thu nhỏ kích thước của sản phẩm, hoặc mở rộng hay thu nhỏ giới hạn không gian mà sản phẩm được sử dụng; hoặc bằng cách thâu tóm những khoảng thời gian mà sản phẩm thường được sử dụng.

Có thể có những quảng cáo phù hợp với nhiều Mẫu. Ví dụ, minh hoạ quảng cáo sản phẩm giày của Nike có thể phù hợp với Mẫu Kết quả, Cạnh tranh và Thay thế Chiều kích.

Lưu ý rằng những Mẫu này không thể thay thế được cho những chiến lược quảng cáo như cộng hưởng cảm xúc hoặc định vị, chính là những kết quả đầu ra của những Mẫu này. Thay vào đó, chúng được sử dụng ở giai đoạn đầu của những chiến lược này, như là một khung ý thức để quảng cáo được phát triển một cách hiệu quả từ những thông tin từ “trong khuôn mẫu”, mà không hề tìm kiếm những yếu tố ngẫu nhiên được hình dung ngoài khuôn mẫu.

Những phương pháp sáng tạo bên trong và bên ngoài khuôn mẫu đều mang đến những ý tưởng quảng cáo tuyệt vời. Mẫu Sáng tạo giúp tiến gần về nhà hơn, là nơi tuyệt vời để bắt đầu những cuộc hành trình mới.

Nguồn: BrandDance