Thuê người tiêu dùng làm truyền thông

Thuê người tiêu dùng làm truyền thông

Khoác một chiếc áo đầm mới mua lên người, cô gái tuổi teen lập tức rút điện thoại ra chụp ảnh – selfie. Điện thoại thông minh và mạng xã hội thay đổi hành vi chia sẻ niềm vui (và nhiều hành vi khác) của con người một cách… “ghê gớm”.

Thay vì gọi mấy người bạn đi uống trà chanh khoe chiếc đầm, việc selfie rồi post lên Facebook của cô gái có thể khiến hàng trăm, hàng ngàn người biết cô có chiếc đầm mới. Cho nên, chuyện các Facebooker, Instagramer nổi tiếng kiếm nhiều tiền từ các nhãn hàng không còn là chuyện mới.

Kiếm tiền trong “thời gian chết”

Thế nhưng hiện nhiều nhãn hàng không còn ưa chuộng việc thuê những người nổi tiếng trên mạng xã hội quảng bá cho họ nữa. Các ngôi sao ngày càng quá quắt trong chuyện đòi thù lao, mặt khác, chính họ cũng mất điểm trong mắt các fan ở chuyện tạo nội dung để fan thưởng thức thì ít mà đăng đàn khen sản phẩm này tốt, dịch vụ kia hay thì nhiều. Mua quảng cáo của chính các mạng xã hội cũng không còn tốt, vì thuật toán của mạng xã hội đưa đến lượng khách hàng không phải khách hàng mục tiêu của sản phẩm. Giờ đây, nhiều nhãn hàng đã hoặc đang tính chuyện mua quảng cáo với những người bình thường tham gia vào mạng xã hội.

Giờ đây, nhiều nhãn hàng đã hoặc đang tính chuyện mua quảng cáo với những người bình thường tham gia vào mạng xã hội.

Xã hội đang nói tới “kinh tế chia sẻ” với các đại diện hàng đầu như Uber, Airbnb, loại hình tạo điều kiện cho nhiều người kiếm tiền trong thời gian rảnh rỗi. Nhưng các mô hình như Uber không phải là tất cả những gì nền kinh tế chia sẻ có. Để tham gia Uber, ít nhất bạn cũng phải có hoặc phải thuê ô tô, trong khi đó, còn rất nhiều cách kiếm tiền trong “thời gian chết” mà không cần phải có một tài sản như ô tô.

Trang Penny Hoarder (Kẻ tích trữ từng xu) mới liệt kê 32 cách kiếm tiền hợp pháp qua các ứng dụng di động. Giả dụ bạn đang ngồi chờ ở bến xe buýt, thay vì lướt Facebook hay xem báo để đốt thời gian, bạn mở ứng dụng Swagbucks, làm những công việc nhỏ mà ứng dụng này giao như trả lời một cuộc khảo sát, bỏ phiếu cho một cuộc bình chọn, xem các video… là bạn có tiền. Giờ đây, điện thoại thông minh, mạng xã hội và nhu cầu đốt thời gian của người dùng là sự kết hợp lý tưởng để các nhãn hàng trao cơ hội kiếm tiền cho mọi người, biến người sử dụng điện thoại thành người ủng hộ trung thành của nhãn hàng và thành người tiêu dùng năng động. Một số ứng dụng giúp quảng bá tiếp thị nhãn hàng như vậy đã đến Việt Nam và được giới thiệu trong sự kiện Innovation Day 2016 tại TPHCM hồi tuần trước.

Mỗi người là một cơ quan truyền thông

Hành động selfie rồi đưa lên Facebook của cô gái trẻ không tạo ra tiền, nhưng cũng với hành động đó, cô có thể kiếm được tiền nếu sử dụng ứng dụng Fotoku. Vào ứng dụng này chụp hình selfie, lồng hình chụp vào khung hình có tên, hình ảnh, logo một nhãn hàng nào đó rồi đưa lên các mạng xã hội. Với mỗi “like” cho bức hình, cô gái được 200 jet; mỗi bình luận cô được 300 jet; mỗi chia sẻ hoặc chia sẻ cấp 2 được 100 jet; sử dụng bức hình làm hình đại diện (avatar) tối thiểu 30 ngày được tặng 5.000 jet.

Fotoku là một trong 8 ứng dụng của bộ ứng dụng Jet8 bên cạnh các ứng dụng tại video, truyện hoạt hình, chụp hình món ăn… cho phép người dùng tạo nội dung được tài trợ (bởi nhãn hàng nào đó). Nội dung đó được tưởng thưởng qua mức độ gắn kết của người tạo nội dung với người khác trên các mạng xã hội. Jet là đơn vị tiền tệ ảo của bộ ứng dụng Jet8, cứ 10.000 jet đổi được 1 đô la Mỹ. Khẩu hiệu “In Engagement We Trust” trên đồng jet gửi gắm thông điệp của nhà phát triển bộ ứng dụng: sự gắn kết là chìa khóa thành công của việc kinh doanh ngày nay. Với đồng jet này, người được thưởng có thể mua các sản phẩm ngay trên nền tảng bộ ứng dụng hoặc đổi ra tiền thật.

Ông Victor Zabrockis (phải), người sáng lập Jet8 giới thiệu ứng dụng Fotoku với đối tác tiềm năng. Ảnh: Đinh Hiệp.

Bộ ứng dụng Jet8 đã đưa các nhãn hàng vươn tới 280 triệu tài khoản mạng xã hội ở Đông Nam Á. 80% trong số này ở độ tuổi vàng của các nhãn hàng tiêu dùng nhanh (từ 18-34 tuổi). Fotoku bắt đầu ra mắt ở Việt Nam từ tháng 7-2016 và chạy thử cho một nhãn hàng, đến nay, những người dùng ứng dụng này đã tạo nội dung vươn tới 25 triệu tài khoản trên mạng xã hội.

Chia sẻ với TBKTSG, ông Victor Zabrockis nói: “Chúng tôi xem mỗi người là một cơ quan truyền thông. Hàng ngày, hàng ngàn người sẽ tạo ra hàng ngàn nội dung, vươn tới bạn bè của họ một cách tự nhiên. Và để thu hút được người khác tương tác (like, bình luận, chia sẻ) thì mỗi người tạo nội dung được tài trợ trên Fotoku phải tự học cách làm sao để mình có giá trị hơn”.

Công thức “tạo nội dung – tìm gắn kết – kiếm tiền” này có thể thấy ở các ứng dụng khác cũng được giới thiệu tại sự kiện Innovation Day 2016, như Krowdpop, Got It, Easy World, Pokkt… Christian Hưng Nguyễn, đồng sáng lập ứng dụng Offpeak, chuyên gia về startup, đưa ra nhận xét: “Phát triển các ứng dụng như thế này không khó, không phải mất nhiều công phát triển cộng đồng, tìm kiếm nhu cầu hay giáo dục người dùng như các ứng dụng đi chợ thuê, mua vé xe, đặt lịch làm đẹp, thuê người giúp việc… mà các nhà phát triển dịch vụ di động ở Việt Nam đang làm. Các startup công nghệ Việt Nam vẫn bị hạn chế tầm nhìn…”.

Đừng để bị chìm nghỉm giữa đại dương nội dung

“Cha đẻ nước Mỹ” Benjamin Franklin có câu nói: “Nếu bạn không muốn bị lãng quên ngay sau khi chết, hoặc viết thứ gì đó đáng đọc hoặc làm thứ gì đó đáng được viết”. Vế sau của câu này được giới tiếp thị truyền thông số sửa thành “…hoặc bình luận đáng lôi cuốn hoặc tạo ra thứ gì đó đáng được bình luận” để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo nội dung cho tiếp thị quảng bá thương hiệu.

93% nội dung truyền thông số bị chìm nghỉm, không tới được khách hàng mục tiêu vì không thỏa mãn các tiêu chí.

Nhưng không phải nhãn hàng nào cũng phù hợp với việc dùng các ứng dụng như Fotoku để nhờ số đông người sử dụng mạng xã hội tạo thật nhiều nội dung. Trường hợp nhãn hàng phải tự làm nội dung thì họ làm thế nào để không bị chìm nghỉm trong đại dương nội dung được tạo ta mỗi ngày?

Số liệu năm 2015 từ công ty tư vấn về tiếp thị số Smart Insights cho biết cứ mỗi 60 giây, trên thế giới có 3,3 triệu dòng trạng thái mới trên Facebook; 3,1 triệu lượt tìm kiếm trên Google; 55.555 tấm ảnh được tải lên Instagram; một lượng video có thời lượng 400 giờ đồng hồ được tải lên YouTube… Còn các thương hiệu, mỗi ngày họ cho ra 27 triệu nội dung truyền thông số.

Theo bà Roopa Dhawan, Tổng giám đốc tập đoàn Truyền thông và Tiếp thị Mindshare tại Việt Nam, đơn vị tổ chức Innovation Day 2016, 93% nội dung truyền thông số bị chìm nghỉm, không tới được khách hàng mục tiêu vì không thỏa mãn các tiêu chí: đặt người tiêu dùng vào trọng tâm, sức lôi cuốn, chứa nhiều tầng đổi mới sáng tạo, thông điệp rõ ràng.

Cá nhân hóa trải nghiệm người tiêu dùng

Jaguar thực hiện chiến dịch quảng bá chiếc xe thể thao đời mới mang tên “Art of Performance Tour”, thay vì mời khách đến lái thử và tham gia các hoạt động như các chương trình quảng bá như từ trước đến nay, họ mời khách đến đóng một đoạn phim dài hơn 2 phút. Phim trường là nơi thử xe, kịch bản là một buổi tuyển chọn điệp viên của Cơ quan tình báo Anh với 7 cảnh quay, 2 cảnh diễn với diễn viên Graham McTavish trong phòng và 5 cảnh diễn trên chiếc Jagua, khách lái xe trong phim trường và thể hiện cảm xúc trước các máy quay gắn trên xe. Những cảnh khó do các cascadeur thực hiện. Sau khi quay xong, khách được Jaguar trả cho đoạn video mà họ diễn với đề nghị đưa lên YouTube và các mạng xã hội.

“Art of Performance Tour” được thực hiện ở các thành phố Bắc Mỹ, Anh và châu Âu, thành công vang dội về mặt quảng bá. Bài học thành công của Jaguar là nhờ chính khách hàng làm nội dung cho họ.

Để thực hiện chiến dịch quảng cáo cho dòng xe NX 2016 trên Facebook, nhãn hiệu Lexus cũng không quản ngại tạo ra hơn 1.000 đoạn video quảng cáo khác nhau, mỗi đoạn dài 30 giây. Tùy vào dữ liệu cá nhân của từng người trên Facebook, họ cho phát đoạn video phù hợp (ví dụ nếu là người trẻ tuổi, năng động, ham đi du lịch thì họ sẽ phát đoạn quảng cáo mang chủ đề du lịch lên tài khoản Facebook của người này để thu hút sự chú ý của anh ta). Số lượng người dùng Facebook xem các video quảng cáo của Lexus đã tăng 315% so với dự kiến, lượng tương tác tăng 1.673% so với dự kiến.

Các ví dụ về Jaguar và Lexus cho thấy nhu cầu cá nhân hóa của mỗi người tham gia mạng xã hội là rất cao. Trưởng bộ phận sáng tạo nội dung khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Mindshare, ông Mikael Christenson, nói tại sự kiện Innovation Day 2016: “Ngày nay, kể một câu chuyện chưa đủ, những người làm tiếp thị phải tìm cách đi xa hơn nữa”.

Nguồn: BrandsVietNam

Cách sử dụng ký hiệu trong Tên Thương hiệu

Cách sử dụng ký hiệu trong Tên Thương hiệu

Tạo ra được một cái tên thương hiệu dễ nhớ đang trở nên ngày càng khó khăn hơn. Rất nhiều tên đã được sử dụng, bao gồm tên của những loại trái cây nổi tiếng nhất.

Sở hữu 1 cái tên hay 1 từ hoàn toàn mới không chỉ là 1 vấn đề liên quan đến cả chiến lược và sáng tạo, mà cái tên đó còn phải được đăng kí một cách hợp pháp để trở thành thương hiệu riêng của công ty. Với 2.126.264 tên thương hiệu đã được đăng kí ở Mỹ tính tới thời điểm hiện tại , tìm 1 cái tên thật khác biệt trở nên khó hơn nhiều. Suy cho cùng, chúng ta chỉ có 26 chữ cái tiếng Anh, và không phải sự kết hợp nào cũng cho ra 1 từ có nghĩa, ví dụ như là sự xuất hiện của một nguyên âm thường là điều bắt buộc và còn phải cân nhắc cả chiến lược, hệ thống hình ảnh và cách truyền đạt để có thể tạo ra một cái tên thương hiệu thành công. Theo lý thuyết thì đến một lúc nào đó chúng ta sẽ chẳng còn sự lựa chọn mới mẻ hay ý nghĩa nào để tạo ra 1 cái tên thương hiệu cả. Nhưng chúng ta không vì thế mà mất hy vọng, hay chí ít là chưa.

Thế còn ký hiệu thì sao?

Ngoài 26 chữ cái ra, thì chúng ta còn có thể sử dụng nhiều nguồn khác để tạo ra tên thương hiệu. Hãy nhìn vào bàn phím nào: nó gồm 26 chữ cái, 10 số và 32 ký hiệu. Các ký hiệu này mở ra nhiều lựa chọn mới để ta sử dụng cho việc đặt tên thương hiệu.

Cách dùng chữ cái kết hợp với các ký hiệu còn là 1 cách để tạo ta 1 cái tên thương hiệu tách biệt. Ví dụ như ở Trung Quốc, 2 cái tên DG và D & G có thể được đăng kí mà không xảy ra sự xung đột nào. Với ý nghĩ đó, hãy cùng nhau nhìn vào 1 số ví dụ mà tên thương hiệu sử dụng ký hiệu trong đó:

Strategy&

“Strategy&” được sang lập năm 2014 khi 2 công ty Booz & Company và PwC sát nhập với nhau.

Đây chắc chắn là 1 cái tên khác biệt, và ký hiệu “&” được lấy từ tên thương hiệu “Booz & Company”. Nhưng ý nghĩa của “Strategy&” là gì? Công ty muốn nói với khách hàng của họ rằng họ không chỉ phát triển chiến lược, nhưng cái tên thì như gợi lên câu hỏi – Chiến lược và còn gì nữa? Không có câu kết thúc hay chú thích, chúng ta sẽ không thể biết câu trả lời.

Hơn nữa, ký hiệu “Và” không được sử dụng nhất quán khi mà địa chỉ website của họ là strategyand.pwc.com, và trong các bài báo thì lại là “strategy +”. Sử dụng biểu tương để truyền tải 1 nghĩa nào đó – khiến mọi người tò mò – có thể trở thành 1 công cụ hiệu quả trong việc đặt tên thương hiệu. Nhưng như hầu hết mọi thứ trong quá trình xây dựng thương hiệu, nếu nó không được sử dụng một cách nhất quán và có hệ thống, thì thay vì khiến khách hàng gắn bó với thương hiệu, nó sẽ chỉ gây ra sự khó hiểu.

Chips Ahoy!, YUM!, và Yahoo!

Cả 3 đều sử dụng dấu chấm than ở cuối tên thương hiệu, nó tạọ cảm giác tràn trề năng lượng và nhiệt huyết đến cho hệ thống định vị thương hiệu của họ. Điều này có thể khiến cho tên thương hiệu trở nên độc đáo và thu hút, miễn là âm điệu của nó nhất quán với chính thương hiệu. Trường hợp sử dụng ký hiệu thường ít thấy đối với các công ty luật hay bệnh viện. Ta thấy cảm xúc hứng thú rất quan trọng đối với các loại hình kinh doanh của 3 ví dụ trên. Hơn nữa, sự thích thú còn gắn liền với tính cách thương hiệu của họ – từ bao bì sản phẩm, đến thong điệp mà thương hiệu truyền tải, đến ứng dụng trên trang web của họ, luôn luôn có sự thống nhất giữa tiếng nói và âm địệu thương hiệu.

?Nếu như!

Một công ty tư vấn sáng tạo sử dụng dấu câu ở cả đầu và cuối tên thương hiệu. Nó kể 1 câu chuyện đơn giản nhưng không kém phần hào hứng: bắt đầu bởi 1 câu hỏi và kết thúc với 1 cầu trả lời. Trong logo của mình, vì tên thương hiệu có thể không giải thích được công việc của họ là gì, 1 câu chú thích về “đối tác sáng tạo” cũng được thêm vào. Cách tiếp cận đặt tên thương hiệu toàn diện như vậy đã tạo nên 1 bức tranh rõ ràng và dễ hiểu cho khách hàng.

Su:m37o

1 công ty mỹ phẩm Hàn Quốc đã đem việc sử dụng ký hiệu trong tên thương hiệu lên 1 tầm cao mới bằng việc sử dụng dấu hai chấm, ký hiệu chỉ độ và cả số cùng 1 lúc. Nhưng câu hỏi đặt ra là họ có quá tay với việc đặt tên này hay không? Dấu hai chấm làm cho việc đọc tên trở nên đứt quãng, và “37o” làm tên thương hiệu trở nên khó nhớ. Việc them vào quá nhiều ký hiệu có thể khiến cho thương hiệu được nhớ đến về mặt hình ảnh hơn là cái tên của nó.

85oC

1 sự kết hợp hài giữa số và ký hiệu để đặt tên thương hiệu của một chuối quán cà-phê ở Đài Loan. 85 là nhiệt độ hoàn hảo để pha cà phê. Đây là 1 tên thương hiệu ngắn, khác biệt, dễ nhớ, đồng thời bao gồm cả một câu chuyện thú vị đằng sau nó.

SK-II

Doanh nghiệp sử dụng dấu gạch ngang cùng chữ số La Mã cho tên thương hiệu của họ. Đây là một cái tên ngắn gọn, dễ nhớ và độc đáo. Và do số La Mã đã khá quen thuộc với hầu hết mọi người, nó còn là một cái tên dễ đọc. Tuy nhiên, dường như không có bất cứ một ý nghĩa nào khi sử dụng dấu gạch ngang trong tên thương hiệu, hay đúng hớn, thì ý nghĩa của nó chỉ thực sự được biết đến khi doanh nghiệp mất một khoảng thời gian để truyển tải đến khách hàng. Nếu thiếu một câu chuyện thương hiệu rõ rang, đây là một cách tốn kém để đưa tên thương hiệu đến gần khách hàng, đặc biệt là đối với các thương hiệu mới. Hơn nữa, địa chỉ của tên thương hiệu là: sk-ii.com, không được đọc như “SK hai” như các mà tên thương hiệu thể hiện.

Cách tốt nhất để sử dụng ký hiệu trong Tên thương hiệu

Qua một số ví dụ, cách tốt nhất để áp dụng ký hiệu trong tên thương hiệu là khi:

Ký hiệu đó mang một ý nghĩa nhất định

Thương hiệu không nên sử dụng ký hiệu một cách tuỳ tiện trong tên của họ. Tốt hơn cả là nên có một câu chuyện đằng sau nó và âm điệu của ký hiệu nên có sự nhất quán với tính cách thương hiệu

Ký hiệu nên được sử dụng một cách đồng nhất và rộng khắp.

Sự thay đổi nhận dạng của tên thương hiệu thường xuyên sẽ làm giảm sự độc đáo cũng như khả năng nhận diện của khách hàng đối với thương hiệu.

Khi sử dụng một ký hiệu cho thương hiệu, nó nên có mặt trên mọi phương diện thật nhất quán. “!”, “&” hay “@” không chỉ nên xuất hiện nơi có nơi không. Sự thay đổi nhận dạng của tên thương hiệu thường xuyên sẽ làm giảm sự độc đáo cũng như khả năng nhận diện của khách hàng đối với thương hiệu, hoặc làm họ nghi ngờ uy tín của thương hiệu đó. Cách sử dụng ký hiệu trong chữ ký thương hiệu cũng như trong địa chỉ trang web là những dao diện chính để xây dựng nhận diện thương hiệu

Ký hiệu có thể trở thành một tài sản thương hiệu cốt lõi xuyên suốt các danh mục sản phẩm của doanh nghiệp.

Một khi sự nhận biết thương hiệu đã hình thành, ký hiệu trong tên thương hiệu đại diện cho một tài sản có thể sử dụng để quảng bá cơ cấu thương hiệu. Ví dụ nếu một thương hiệu có nhiều thương hiệu con, những thương hiệu con này có thể sử dụng ký hiệu trong thương hiêu mẹ để kết nối với thương hiệu mẹ cùng các thương hiệu nhỏ khác trong hệ thống thương hiệu.

Điều gì đang chờ đợi phía trước trong việc đặt tên thương hiệu?

Đúng là chúng ta chưa mất hẳn hy vọng khi đặt tên. Bằng việc sử dụng ký hiệu để đặt tên thương hiệu, chúng ta đã mở ra ra nhiều cánh cửa cơ hội mới, mà có thể trong tương lại sẽ còn nhiều hơn nữa. Sẽ ra sao nếu chúng ta có thể sử dụng chữ cái từ nhiều nước khác nhau trên Thế Giới để đặt tên thương hiệu? Hay chèn các ký hiệu cảm xúc? Hay phát minh ra những chữ cái mới? Tất cả những điều trên có thể thành hiện thực trong một tương lai không xa. Con người đã giao tiếp với nhau qua chữ viết suốt 5000 năm, và chúng ta sẽ tiếp tục làm thế trong thời gian tới. Các thương hiệu cũng không có vẻ gì là sẽ biến mất cả, chúng ta cần nghĩ ra những cách sang tạo mới để đặt tên cho chúng. Tương lai không nhất thiết phải gói gọn trong một bảng 26 chữ cái.

Nguồn: BrandsVietNam

5 nguyên tắc viết tiêu đề quan trọng nhất

“Chồng tôi mê gái” – đây là một ví dụ tiêu biểu về kỹ thuật viết headline (tiêu đề). Ví dụ này nằm trong 5/10 nguyên tắc viết tiêu đề khiến khách hàng không thể rời mắt.

Các tiêu đề chiếm đến 90% hiệu quả của một mẫu quảng cáo. Đây là ý kiến của Albert Lasker, một guru của quảng cáo hiện đại. Ông ta nói điều này khi internet còn chưa ra đời. Có nghĩa là ngay cả khi con người chưa bị tấn công bởi quá nhiều thông tin như hiện nay, vai trò của tiêu đề đã vô cùng quan trọng.

Tiêu đề sẽ quyết định một status bán hàng trên Facebook có được khách hàng đọc hết hay không. Tiêu đề sẽ giúp một bài viết PR được click nhiều hay ít. Và tiêu đề sẽ góp phần giúp một bài viết tâm huyết ai đó dành hàng giờ để viết không bị rơi vào sọt rác.

Sau đây là 5/10 nguyên tắc viết tiêu đề theo tôi là quan trọng nhất:

Lợi ích của khách hàng

Tiêu đề, dù cực ngắn, nên nói được lợi ích khách hàng sẽ nhận được về sản phẩm dịch vụ cụ thể. Trừ một số người có thời gian để chủ động tìm kiếm thông tin, đa số khách hàng thường tiếp nhận thông tin về thương hiệu họ mua một cách thụ động. Họ thấy lợi ích cụ thể họ mới đọc tiếp.

Công việc tốt nhất thế giới với lương 200K USD trong 3 tháng.

Những người đang đi tìm việc chắc chắn sẽ click vào tiêu đề này khi đọc ở mục “tìm việc”. Đây là tiêu đề “The best job in the world” quảng cáo về du lịch của bang Queesland (Úc) năm 2008. Tôi là một trong số 3 triệu “nạn nhân” của chiến dịch rất thành công này.

Liên quan đến nội dung body text

Vai trò của tiêu đề là gì? Rất nhiều. Và vai trò quan trọng nhất là nó giúp người đọc đọc phần tiếp theo của đoạn quảng cáo. Nhiều bài viết làm tốt khâu tiêu đề. Nhưng đến đoạn viết chính lại chẳng liên quan gì đến tiêu đề cả. Tình trạng râu ông nọ cắm cằm bà kia sẽ làm người đọc sẽ khó chịu. Chỉ cần lặp lại trên hai lần thôi, lần thứ 3 cứ thấy tên người viết đó, tên thương hiệu đó họ sẽ bỏ qua.

Có keyword gây chú ý

Con số, tên người có ảnh hưởng, tên sự kiện mang tính thời sự, đặc điểm độc đáo của sản phẩm… gì cũng được, nhưng phải có “cái gì đó” để buộc mắt người đọc dừng lại ở đó. Từ “lướt” rất hay. Trước đây lướt sạp báo, lướt web. Lướt sạp báo thấy headline báo nào hay mới nhặt. Lướt web trong một hai phút thấy headline nào thu hút mới click. Giờ thêm từ lướt phây (Facebook). Bạn biết rồi đó. Đã lướt thì cực nhanh. Đã cực nhanh tức không có cơ hội cho những gì không nổi bật. Có những bài viết chất lượng của một số Facebookers chất lượng ít người đọc. Một trong những lý do là headline (hoặc đoạn đầu bài viết) không hấp dẫn vì thiếu keyword thu hút. Thật tiếc!

Các tiêu đề chiếm đến 90% hiệu quả của một mẫu quảng cáo.

Ở ví dụ trên, 200K USD trong 3 tháng là mức lương không một kẻ đang tìm việc nào có thể cưỡng lại được cú click chuột.

Ngôn ngữ hội thoại

Có một thực tế về văn hoá đọc là người đọc giờ đây ngày càng bị ảnh hưởng bởi phong cách copywriting theo ngôn ngữ mạng xã hội nhiều hơn. Hay dở phân tích sau. Nhưng đó là một thực tế. Thực tế này đòi hỏi copywriter không thể bỏ qua khi viết nói chung và viết tiêu đề nói riêng. Những tiêu đề viết theo phong cách “nói chuyện” bình dị, đơn giản sẽ dễ dàng gây cảm tình từ cú lướt đầu tiên hơn.

Chồng tôi mê gái
Chồng tôi mê gái chỉ vì tôi không đọc tuần báo Đàn bà
Nên không biết săn sóc cho đẹp hơn
Không biết làm đồ ăn cho ngon hơn
Không biết dạy con khéo hơn
Không biết giao tiếp giỏi hơn
Không biết ăn mặc thanh lịch hơn
(trích đoạn quảng cáo cho Tuần báo Đàn bà – tuần báo thời Pháp thuộc)

Vâng tiêu đề là “chồng tôi mê gái”. Một nửa thế giới này không ai không quan tâm. Rất chi là trực quan sinh động. Ngôn ngữ nghe như một chị một cô nào đấy đang buôn chuyện với bạn. Các bà các cô đọc đoạn viết quảng cáo này chắc chay đi mua Tuần báo Đàn Bà khẩn trương thôi. Tiếc rằng hình như giờ có nhiều báo giấy báo mạng nhưng không có tờ nào, trang nào mang tên này. Cơ hội?

Trung thực

Tiêu đề giúp đoạn viết copywriting (quảng cáo) hay đoạn viết content writing (viết nội dung) được chú ý. Chính vì quan trọng nên dẫn đến một số tiêu đề rơi vào bẫy giật tít quá đà. Hiện nay không hiếm các bài viết về đề tài xã hội hay để tài thương hiệu của các doanh nghiệp rơi vào bẫy này. Tôi cho rằng cách bền vững nhất để khách hàng đến và ở lại với mình là tôn trọng họ. Đối với tiêu đề, sự tôn trọng thể hiện ở việc không dụ họ click những tiêu đề gây shock (gây tranh cái là chuyện khác) trong khi nội dung không liên quan đến tiêu đề này. Cảm giác “bị lừa” khi lỡ đọc một bài viết vì tiêu đề giật tít không trung thực khiến người đọc cực kỳ khó chịu. Những người làm marketing đừng quên điều này.

Năm nguyên tắc nêu trên đều cần đi theo một số kỹ thuật ngôn ngữ (tạm gọi là thủ pháp). Tôi cho rằng thủ pháp là công cụ quan trọng của ngôn ngữ khi viết. Nhưng thủ pháp cần được sử dụng dựa trên các nguyên tắc. Không có nguyên tắc làm chuẩn, chiêu thức sẽ dễ lạc lối và trượt khỏi bánh ray quan trọng: copywriting về tổng thể là để xây dựng thương hiệu, dù đơn lẻ một bài viết nào đấy có thể chỉ để bán hàng.

Nguồn: BrandsVietNam

Điều cần thiết để có khách hàng trung thành

Chương trình ưu đãi dành cho các khách hàng trung thành của các nhà bán lẻ là một cách hiệu quả để tạo ra lợi thế cạnh tranh bằng cách giảm khả năng khách hàng chuyển sang mua sắm tại các cửa hàng bán lẻ khác.

Thật vậy, hơn bảy trong 10 người Việt (74%) tham gia chương trình khách hàng thân thiết trong Khảo sát Tâm Lý Trung Thành Đối Với Các Nhà Bán Lẻ của Nielsen Toàn Cầu Dành phần nào đồng ý hoặc hoàn toàn đồng ý rằng, với tất cả các yếu tố khác tương đương nhau, họ sẽ mua từ một cửa hàng bán lẻ có một chương trình khách hàng thân thiết thay vì là một cửa hàng không có. Chương trình khách hàng thân thiết cũng có thể giúp làm tăng thêm các lần mua sắm và số lượng mua sắm của khách hàng. Hơn sáu trong 10 người Việt (61%) có tham gia chương trình ưu đãi dành cho khách hàng thân thiết đồng ý rằng các chương trình khách hàng thân thiết khiến họ có nhiều khả năng sẽ tiếp tục mua sắm với các cửa hàng bán lẻ đó, và hơn hai phần ba (73%) đồng ý rằng họ mua sắm thường xuyên hơn và chi tiêu nhiều hơn tại các nhà bán lẻ với các chương trình khách hàng thân thiết, theo thông tin mới nhất từ Nielsen, công ty toàn cầu về đo lường hiệu quả hoạt động .

Cuộc khảo sát Khảo sát Tâm Lý Trung Thành Cho Các Nhà Bán Lẻ của Nielsen Toàn Cầu được thực hiện để thăm dò ý kiến hơn 30.000 người trả lời trực tuyến tại 63 quốc gia nhằm tìm hiểu những gì khiến người tiêu dùng tham gia vào các chương trình khách hàng thân thiết của các bán lẻ. Chúng tôi kiểm tra tỷ lệ tham gia tự báo cáo, các phần thưởng hoặc lợi ích có giá trị nhất, và các tính năng hấp dẫn nhất trong các chương trình khách hàng thân thiết tương lai. Cuối cùng, chúng tôi cung cấp những hiểu biết cho việ xây dựng và duy trì một chương trình khách hàng thân thiết thành công.

Cũng theo báo cáo, khách hàng ở Châu Á Thái Bình Dương tham gia chương trình khách hàng thân thiết cũng cho rằng chương trình ưu đãi dành cho khách hàng trung thành có thể khiến họ mua thường xuyên hơn và mua nhiều hơn tại cửa hàng bán lẻ đó, ở mức 78% so với 72% tương ứng. Theo báo cáo, Việt Nam và New Zealand có tỷ cao nhất về việc khách hàng tham gia ít nhất một hoặc nhiều chương trình khách hàng thân thiết với 84%, tiếp theo là Úc (83%), Nhật Bản (79 %) và Malaysia (77%).

“Sự thật là có rất nhiều người mua hàng yêu thích các chương trình khách hàng thân thiết. Do đó, các chương trình khách hàng thân thiết thật sự có hiệu quả sẽ giúp tăng thị phần của nhà bán lẻ,” Roberto Butragueno, Phó Giám Đốc, Bộ Phận Dịch Vụ Dành Cho Các Nhà Bán Lẻ, Nielsen Việt Nam nhận định. “Nhưng thường có một khoảng cách lớn giữa số lượng khách hàng tham gia các chương trình và số lượng chương trình mà họ tham gia tích cực. Chương trình khách hàng thân thiết không thể được thiết kế chung chung cho tất cả các đối tượng khác nhau. Có sự khác biệt lớn giữa các nhóm người mua hàng khác nhau cho sở thích về các chương trình khách hàng thân thiết và thói quen. Những khác biệt này bao gồm sự gắn kết với các chương trình khách hàng thân thiết như thế nào, những lợi ích hữu hình mà họ đang tìm kiếm từ các chương trình, và thậm chí họ quan tâm đến các chương trình khách hàng thân thiết nhiều như thế nào. Các nhà bán lẻ cần phải xác định những người mua hàng nào mà họ muốn thu hút vào các cửa hàng hoặc vào website của họ và thiết kế một chương trình khách hàng thân thiết thích hợp.”

Lợi ích hữu hình hơn là lợi ích vô hình

Không có gì ngạc nhiên là đối với đa số người khảo sát trong khu vực cho biết các lợi ích liên quan đến tài chính là những lý do chính để tham gia vào các chương trình khách hàng thân thiết. Gần một nửa số người được hỏi ở Châu Á Thái Bình Dương (49%) phần nào hoặc hoàn toàn đồng ý rằng họ thấy chương trình giảm giá sản phẩm có lợi nhất. Và hơn bốn trong 10 người châu Á Thái Bình Dương cho rằng chiết khấu hoặc hoàn tiền thì có lợi, với tỉ lệ 44%. Tỷ lệ này còn cao hơn ở Việt Nam, khoảng năm trong mười người Việt Nam được hỏi nói rằng họ tham gia các chương trình khách hàng thân thiết để được hưởng ưu đãi về giảm giá sản phẩm và chiết khấu hoặc hoàn tiền, tỉ lệ 53% và 49% tương ứng. Một số lượng người Việt ít hơn thì cho rằng miễn phí vận chuyển, điểm bay thường xuyên và dịch vụ ưu tiên hơn là những lợi ích có lợi đối với họ, với 37%, 26% và 21% tương ứng.

Châu Á Thái Bình Dương: Mong muốn để sử dụng các ứng dụng (apps)

Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có tỷ lệ người tham gia chương trình khách hàng thân thiết là cao nhất, cũng đã nói rằng ứng dụng trên di động của các chương trình khách hàng thân thiết được phần nào hoặc rất hấp dẫn (69% so với 60% trên toàn cầu). Ứng dụng di động cũng khá hấp dẫn ở Việt Nam (66%) và đặc biệt hấp dẫn Ấn Độ (80%), Thái Lan (78%) và Trung Quốc (74%).

Tích hợp với các hệ thống thanh toán kỹ thuật số (71%) và với các ứng dụng của bên thứ ba mà có thể tích hợp thông tin chương trình khách hàng thân thiết (51%) cũng rất hấp dẫn với các khảo sát viên ở Việt Nam. Ấn Độ, Trung Quốc và Thái Lan là những người ủng hộ nhiệt tình nhất trong lĩnh vực này.

Thực tế, các tính năng điện thoại di động cũng rất được mong đợi với hơn hai phần ba số thành viên của chương trình khách hàng thân thiết tại Việt Nam (64%) phần nào hoặc hoàn toàn đồng ý là họ có nhiều khả năng để tham gia vào một chương trình khách hàng thân thiết nếu chương trình đó có một ứng dụng di động có sẵn, so với tỉ lệ chỉ vào khoảng 56% trên toàn cầu.

“Trong lĩnh vực kỹ thuật số, nền tảng thanh toán sẽ càng tạo cơ hội cho sự tham gia chương trình khách hàng thân thiết của người tiêu dùng, tạo điều kiện thuận tiện và mang tính cá nhân cho các thành viên của chương trình và các nhà bán lẻ tương tác với nhau trong quá trình mua sắm” Roberto cho biết thêm. “Chúng tôi mong đợi được thấy thêm nhiều phương thức tiếp thị tương tác gắn kết các đối tác bán lẻ và các chương trình ưu đãi vượt ra khỏi không gian địa lý.”

Nguồn: Nielsen

Slogan và Taglines: Đâu nên là lời xung trận của thương hiệu?

Khi Tom Bodett đang ghi âm 1 đoạn quảng cáo qua radio cho Motel 6, anh ấy phát hiện kịch bản còn thiếu 1 vài giây. Và để kết thúc mẫu quảng cáo đó, Tom đã ngẫu hứng nói thêm vài từ. Câu nói đó trở thành 1 “hit” đối với khách hàng.

Ngay cả bây giờ, sau 30 năm, Quảng cáo Motel 6 của Tom Bodett vẫn kết thúc với tagline, “We’ll leave the light on for you” (Chúng tôi luôn chờ đợi bạn).

Những câu tagline có thể dễ thương, hài hước, tưng tửng hoặc chả liên quan gì cả, nhưng thông thường chúng không giúp gì mấy cho sự thành công của 1 thương hiệu. Tagline giống như là chiếc xe quét đường ở cuối mỗi đoàn diễu hành. Chúng báo hiệu 1 mẫu quảng cáo sắp kết thúc nhưng hiếm khi nào định vị được 1 thương hiệu.

Slogan thì lại khác. Một câu slogan tốt có thể truyền tải được chiến lược của cả công ty. Tại sao lại chọn ở Motel 6? Chắc chắn không phải vì họ luôn để đèn và chờ đón bạn. Ghé thăm trang web của họ và bạn sẽ thấy câu trả lời chính là “Giá thấp nhất trong cả nước”. Đó mới chính là câu slogan thực sự của Motel 6, và họ nên đóng đinh nó vào quảng cáo của họ.

Tại sao 1 ngành công nghiệp luôn nổi tiếng với sự sáng tạo, phải trân trọng khái niệm tagline – khi nó đại diện cho 1 ý tưởng thứ cấp và đáng bỏ sọt rác? Định nghĩa trong từ điển “Câu cuối cùng trong bài phát biểu của diễn viên”.

Ví dụ như câu độc thoại nổi tiếng nhất của Shakespeare “Tồn tại hay không tồn tại? Đó mới là vấn đề”. Vậy mọi người có nhớ câu tagline không? Hầu như là không. Và nó đây: “Hãy để mọi tội lỗi của ta được ghi nhớ”.

Trong ngữ cảnh màng độc thoại của Hamlet, câu tagline tóm gọn lý do mà Hamlet gặp khó khăn khi ra các quyết định. Nhưng đó không phải chủ đề của nó. “Tồn tại hay không tồn tại” mới chính là câu slogan diễn tả sức mạnh của nghịch lý.

Đây là câu tagline được sử dụng cho quảng cáo của 4 công ty vận tải lớn nhất Thế Giới:

“Đi xa hơn nữa”
“Đi tìm con đường mới”
“Hãy đi khắp nơi nào”
“Khởi đầu của những điều đặc biệt”

Hầu hết các câu tagline đều không thể tạo nên “nguồn cảm hứng” và cho khách hàng lý do để mua sản phẩm của công ty. Tại sao bạn mua xe của Chevrolet? “Tôi muốn trải nghiệm trên những con đường mới”. Không khách hàng nào mua xe với một lý do như vậy cả.

Các công ty quảng cáo và khách hàng của họ thường thích những câu tagline ngắn, vì chúng sẽ hài hoà hơn khi đặt cùng logo. Nhưng như vậy sẽ khó sử dụng 5 cách sau để khách hàng ghi nhớ chúng: gieo vần, lập âm, lập từ, đảo ngữ và câu đa nghĩa. Các câu slogan quảng bá không nhất thiết phải ngắn khi mà một số câu đang nhớ nhất lại khá dài.

“Tới nơi an toàn, đúng hẹn” – 9 chữ này đã biến FedEx trở thành 1 trong những công ty vận tải hàng không lớn nhất Thế Giới. Đó là 1 ví dụ cho thấy sự lặp từ khiến cho slogan nổi tiếng hơn.

Bạn có nhớ 3 câu tagline của FedEx, 1 công ty trị giá 46 tỷ USD?

“Giải pháp mới là quan trọng”
“Chúng tôi thấu hiểu”
“Thư giãn nào, chúng tôi là FedEx đó”

Chắc là không. Nhưng tôi cá là bạn nhớ câu slogan này của 1 công ty 4 tỷ đô la: “Ace là nơi có người thợ kim khí hữu dụng”.

Hay là của công ty trị giá 370 triệu đô này: “Roto-Rooter, khiến mọi rắc rối của bạn trôi tuột xuống ống nước.” Không như tagline, câu xung trận hay slogan được sử dụng ngay đầu trận chiến, không phải là khi tàn cuộc. Chúng là chủ để của toàn bộ chiến dịch.

Cách mạng Mỹ sử dụng câu xung trận “Đừng giẫm đạp lên chúng tôi”. Một thời gian sau, một câu xung trận khác đã ra đời do xung đột nổ ra với Anh vì biên giới phía Bắc vùng Oregon.

Người Anh muốn biên giới được đặt tại 42 độ Vĩ tuyến, trong khi người Mỹ lại muốn nó tại Vĩ tuyến 54o40. Tình hình hai bên trở nên căng thẳng khi người Mỹ hô hào “Năm mươi tư bốn mươi hay là chiến!”

Cuối thế kỷ 19, đã có một cuộc nổi dậy ở Cuba chống lại sự thống trị của Tây Ban Nha. Để bảo vệ người dân Mỹ, Tổng thống William McKinley đã điều tàu chiến USS Maine tới Havana. Ba tuần sau, một vụ nổ lớn xảy ra và nhấn chìm chiến ham USS Maine cùng với 266 thuỷ thủ đoàn. Cộng đồng người dân Mỹ đã lên tiếng với khẩu hiệu: “Hãy nhớ lấy tàu Maine. Lũ khốn Tây Ban Nha!”

Bước vào thế kỉ 20, nước Mỹ tham gia vào Thế chiến thứ Nhất, một trong những trận chiến tàn khốc nhất lịch sử. Trận chiến này được biết tới như là “Cuộc chiến kết thúc tất cả những cuộc chiến khác” Điều gì làm câu xung trận dễ nhớ? Trong bốn câu trên, khó nhớ nhất là câu “Đừng giẫm đạp lên chúng tôi”, ba câu còn lại thì sử dụng những kỉ thuật để làm cho chúng dễ nhớ hơn.

Phép lập âm: “Năm mươi bốn bốn mươi hay là chiến”

Gieo vần: “Hãy nhớ lấy tàu Maine. Lũ khốn Tây Ban Nha”

Lập từ: “Cuộc chiến kết thúc những cuộc chiến khác”

Và cả lời cổ động lay động long người trong cuộc chiến Cách mạng Pháp “Tự do. Bình đẳng. Bác ái.” Hầu hết dân Mỹ đều biết câu tuyên ngôn của Pháp, thế nhưng bao nhiêu người Mỹ biết câu tuyên ngôn của chính nước Mỹ. Thông thường, chúng ta thường chỉ tập trung vào nội dung của thông điệp mà quên đi tính chất “dễ nhớ” của câu slogan. Ví như câu tục ngữ nổi tiến của Benjamin Franklin: “Ngủ sớm, dậy sớm sẽ đem lại sức khỏe, tiền bạc và trí tuệ”. Chỉ trong 14 từ, Franklin đã sử dụng tới 4 kĩ thuật để làm cho câu nói của ông dễ ghi nhớ hơn: hai phép gieo vần, hai phép lặp âm, một phép lặp từ, và một phép đảo ngữ.

Chả trách mà nó đã tồn tại được 280 năm.

Nguồn: BrandsVietNam

Tết Đinh Dậu, người Việt sẽ chi tiêu như thế nào?

Theo nghiên cứu của Kantar, 46% người Việt sẽ chi tiêu cho thức ăn trong dịp Tết Đinh Dậu nhiều hơn Tết Bính Thân.

Ông Ashish Kanchan, Giám đốc điều hành Kantar TNS Việt Nam, công ty nghiên cứu thị trường của Ấn Độ tại Việt Nam, dẫn kết quả khảo sát của Kantar cho biết Tết năm nay, chi tiêu của người Việt không có nhiều biến động so với năm Tết năm ngoái.

Cụ thể, 43% người Việt sẽ chi tiêu nhiều cho Tết âm lịch 2017 hơn 2016. Số người vẫn giữ mức như Tết âm lịch 2016 là 50%. Số người chi cho Tết năm nay ít hơn năm ngoái là 7%. Trong khi đó, các con số trên của Tết 2016 so với Tết 2015 lần lượt là 41%, 46% và 13%.

Nguyên nhân được cho là kinh tế năm nay so với năm ngoái không có nhiều biến động nên người dân vẫn giữ mức chi không đột biến.

Theo Kantar, người dân Việt Nam sẽ chi nhiều cho thức ăn, đồ uống, trang trí nhà cửa, làm đẹp vào Tết năm nay. Cụ thể, họ sẽ chi 19% cho quần áo, mỹ phẩm, trang sức; 16% cho việc trang hoàng nhà cửa; 38% cho đồ ăn thức uống.

Các con số khảo sát của Kantar cho thấy, 46% sẽ chi tiêu nhiều hơn cho đồ ăn. 53% dự định sẽ móc hầu bao như năm ngoái. Chỉ có 1% là sẽ cắt giảm nguồn ngân sách cho thức ăn trong dịp nghỉ lễ lớn nhất năm này.

Các lĩnh vực như giải trí, đi ăn ngoài, tặng quà, lì xì cũng được nhiều người tình nguyện chi mạnh tay trong dịp Tết năm nay. Trong khi đó, người Việt ngày càng có xu hướng “tiếc tiền” hơn đối với các loại rượu. Có tới 29% cho biết sẽ giảm chi tiêu cho mặt hàng này trong dịp Tết sắp tới.

Nguồn: BrandsVietNam

Email Marketing - Đơn giản lúc nào cũng là tốt nhất

Email Marketing – Đơn giản lúc nào cũng là tốt nhất

Hộp thư điện tử hiện đại là một bộ máy không ngừng thay đổi về màu sắc, kiểu dáng, và doanh số.

Trong nỗ lực tách khỏi nhóm, rất nhiều nhân viên tiếp thị qua email đã làm theo tinh thần lộn xộn hơn, nhiều nội dung hơn và còn hơn thế nữa. Lạc lối trong việc theo đuổi những gì bên ngoài chỉ đem lại những gì không nhìn thấy được.

Trước khi gia nhập “giáo phái lộn xộn” vô hình của những nhân viên tiếp thị qua email, các bạn có biết rằng, có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng trí óc của con người là một bộ phận dễ bị thu hút bởi sự đơn giản và trọng tâm. Đôi mắt bao quát những thứ có thể dễ dàng lĩnh hội. Càng ít tức là càng nhiều.

Email marketing

Email marketing

Trừ phi bạn đang email với mục đích cá nhân hay khẩn cấp tới khách hàng của bạn, còn không thì bạn chỉ có ba giây rưỡi để tạo sự chú ý. Thất bại, và bạn bị loại. Tất cả khoảng thời gian đó dùng để thiết kế một email hoành tráng đề cập tới một trang web cao cấp nhưng nó lại bị cho vào hộp thư spam và vĩnh viễn không bao giờ được mở ra.

Chúng ta có thể tránh được cái chết của những email còn non nớt này nhờ một chút sự tự vấn tâm hồn. Trước khi lập các bước tiến tiếp theo, bạn hãy tự hỏi bản thân ba câu hỏi sau:

1. Loại email ưa thích của bạn là gì?

2. Bạn bỏ ra bao nhiêu thời gian để đọc một email được gửi tới bạn cùng vô số những người khác?

3. Điều gì khác sẽ xuất hiện trên trang web khi bạn xem một email thông thường?

Trả lời cho câu 1: Nếu bạn cũng như hầu hết những người khác, email ưa thích của bạn sẽ là những email chỉ có vài dòng kí tự được gửi bởi một người bạn hay người nào đó đó mà bạn đang mong chờ – nội dung chủ yếu tập trung vào bạn. Nếu người gửi đó gửi bức thư đó theo một phong cách lỗi thời hay quá rườm rà, bạn sẽ mất nhiều thời gian hơn để đọc, và bạn nghĩ người đó cần ra ngoài nhiều hơn.

Đơn giản lúc nào cũng là tốt nhất.

Trả lời cho câu 2: Bạn mất bao nhiêu thời gian để đọc một khối lượng lớn email? Có lẽ là không. Hãy nghĩ về điều đó. Phần lớn những nhân viên tiếp thị không phải là bạn của bạn. Bạn có thể nói một cách lịch sự là anh ta đang làm thêm giờ để lôi kéo bạn. Với kiểu nói dối này, nguyên tắc sống còn dành cho những nhân viên tiếp thị là: Hãy là một người bạn. Viết đơn giản. Viết thật hay. Viết câu tựa đề hấp dẫn sẽ có được 3,5 giây mà bạn cần để gửi bức thông điệp đơn giản của bạn đi.

Email Marketing - Đơn giản lúc nào cũng là tốt nhất

Email Marketing – Đơn giản lúc nào cũng là tốt nhất

Trả lời cho câu 3: Điều gì khác đang xảy ra trên trang web? Là không có gì xảy ra! Gmail được lắp đầy quảng cáo như những dịch vụ trên mạng khác như AOL, Hotmail ..v..v.. Chỉ có một cách để thoát khỏi những quảng cáo đó là: bớt giống quảng cáo hơn. Nghĩ đơn giản. Tôi nghe Miles Davis trong khi tôi soạn email của tôi. Loại nhạc nào truyền cho bạn sự đơn giản và thuyết phục? Hãy nghe khi bạn làm việc.

Với phong cách đơn giản, bạn tha hồ nói chuyện thẳng thắn với khách hàng của mình – dễ dàng và thường xuyên. Các nhà thiết kế, những vấn đề về thay đổi giao diện và dịch vụ đi kèm đều biến mất. Độc giả của bạn cũng tiết kiệm được thời gian, và yêu bạn vì điều đó. Mọi người đều chiến thắng. Bạn có cảm thấy sự căng thẳng lăn ra khỏi vai bạn? Bạn muốn được như thế? Hãy làm cho email trở nên đơn giản.

Nguồn: BrandsVietNam

Xây dựng thương hiệu bằng Hashtag (Phần 2)

Xây dựng thương hiệu bằng Hashtag (Phần 2)

Nếu như ‘tìm một vấn đề liên quan mật thiết đến thương hiệu’ ‘đừng ép bản thân phụ thuộc vào khách hàng’ là 2 lưu ý đầu tiên khi muốn chạy một chiến dịch #Hashtag cho thương hiệu, thì ở bài viết này chúng ta sẽ tìm hiểu 4 vấn đề còn lại.

3. Tập trung vào một vấn đề duy nhất

Một số công ty cố gắng tìm ra một vấn đề xã hội trong tuần để tìm cơ hội tạo ra hội thoại đa chiều giữa người tiêu dùng. Đây là một sai lầm. Hành động này được đánh giá mang tính cơ hội và không chân thực. Các thương hiệu cần tìm ra một vấn để có liên kết mạnh mẽ với thương hiệu, và trung thành với nó trong thời gian dài. Nhãn hàng Chipolte luôn nói về “Thực phẩm và sự chính trực”. Họ không đơn giản chỉ đưa ra thông điệp này vào cuối tuần rồi, và hiện nay mọi người đều quan tâm đến thực phẩm lành mạnh. Công ty được thành lập vào năm 1993, và họ đã nói đến vấn đề này hơn một thập kỷ nay.

Một vấn đề xã hội mà không có sự trợ giúp của thương hiệu mạnh sẽ không thể hoạt động hiệu quả được. Sự trung trực không làm nên thương hiệu Chipolte, mà những chiếc bánh burritos đã làm điều đó, Chuỗi nhà hàng thành công vang dội nhờ việc sử dụng một lượng lớn những món ăn mexico được làm từ nguyên liệu tươi ngon. Nhưng Chipolte đã sáng suốt trong việc liên kết với người tiêu dùng sứ mệnh sử dụng nguồn nguyên liệu sạch bẳng tôn chỉ tôn trọng môi trường, người nông dân và động vật.

4. Nghĩ đến tương lai lâu dài

Hầu hết những chiến dịch hashtag thường được lên kế hoạch chạy trong vòng vài tuần. Liệu Starbucks có in dòng #RaceTogether lên những chiếc ly của họ mãi mãi? Tôi nghi ngờ điều này. Những người làm marketing thường nghĩ đến ngắn hạn thay vì dài hạn. Cách thực sử để tạo nên sức ảnh hưởng chính là chạy những chiến dịch xã hội hàng thập kỷ. Chiến dịch của Dove cho Real Beauty (Vẻ đẹp thực sự) đã kỷ niệm 10 năm thực hiện vào năm ngoái.

5. Có một kế hoạch để thực thi

Chỉ bằng việc đưa một ý tưởng hay một hashtag lên thế giới ảo thì chưa đủ. Bạn cần có quyết tâm biến nó thành sự thật, và có kế hoạch cụ thể để phục vụ việc thực thi. Đây là điều mà Starbucks gặp phải. Kareem Abdul-Jabbar đã tóm gọn vấn đề một cách hoàn hảo: “Tôi đã bị sốc hoàn toàn – vì cách mà công ty thực thi nó, và cách mà họ nghĩ rằng nó sẽ hiệu quả.”

6. Sử dụng hình ảnh

Không có nhiều chiến dịch sử dụng hình ảnh. Một trong những yếu tố làm nên thành công của Dove chính là việc đưa ra những đoạn quảng cáo có hình ảnh của những người phụ nữ với nhiều kích cỡ khác nhau. Đó là một bước đi mạnh mẽ nhằm truyền tải thông điệp rằng tất cả mọi phụ nữ đều xinh đẹp.

Một điều nữa, đừng quên rằng người tiêu dùng mua cà phê để uống, burritos để ăn, và xà bông để tắm gội. Để thành công, bạn cần một thương hiệu mạnh sở hữu một đặc tính riêng biệt trong tâm trí như cà phê đắt tiền, burritos tươi ngon, hoặc xà bông nhiều ẩm. Bạn có thể làm điều gì đó tốt đẹp cho thế giới bằng việc ủng hộ một vấn đề thế giới, nhưng cũng đừng quên công việc chính của mình. McDonald’s cần bớt lo lắng về việc liêu khách hàng có trả bằng tình cảm hay không, và nên chú trọng vào việc nấu những món ăn ngon, phục vụ nhanh chóng trong các nhà hàng sạch sẽ.

Nguồn: BrandsVietNam

Liệu bạn có thoát được bẫy khuyến mãi giá?

Liệu bạn có thoát được bẫy khuyến mãi giá?

Tôi không tin vào sự thật là nhiều công ty đang mắc kẹt trong cái bẫy chương trình giảm giá, chắn chắn là một cái bẫy.

Nếu bạn là một thương hiệu hàng tiêu dùng nhanh, nhìn chung bạn không có lựa chọn nào ngoài việc phải tham gia vào cuộc chiến giá cả, nhưng câu hỏi bạn cần phải đặt ra là: Bạn có thể giảm giá cỡ nào? Và nếu mọi chuyện đi quá xa so với dự tính, bạn làm sao để dừng lại?

Tôi đã đề cập đến đề tài này sau khi được một khách hàng hỏi rằng liệu họ có nên đầu tư quảng cáo cho một chương trình khuyến mãi đang chạy hay không? Theo lý thuyết, câu trả lời của tôi là không. Không chỉ là họ đang mất tiền vì chương trình khuyến mãi, mà bây giờ họ còn đang phải chi thêm ngân sách quảng bá cho chương trình đó sao? Chắc chắn họ sẽ bị lỗ.

Tuy nhiên, có một khoảng cách giữa lý thuyết và thực hành. Đó không chỉ là về người tiêu dùng trở nên quen với việc mua hàng khuyến mãi mà nhà bán lẻ cũng thế. Bạn phải tự hỏi rằng bao nhiêu phần trăm người dùng mua hàng khuyến mãi sẽ mua lại sản phẩm đó trong lần mua sau đó? Đối với đa số người tiêu dùng ở nhiều ngành hàng thì việc xây dựng thương hiệu sẽ có hiệu quả hơn so với chương trình giảm giá. Mặt khác, nếu giảm giá nhiều quá cũng khiến nhà bán lẻ chú ý và có ác cảm với thương hiệu.

Vào năm 1991, Procter & Gamble đã tham gia vào thời kỳ bùng nổ chương trình khuyến mãi giá bằng cách đưa ra chiến lược giá thấp mỗi ngày. Chiến lược này không chỉ tác động tới người tiêu dùng mà còn nhắm vào các đại lý, mục đích là làm giảm lượng hàng tồn kho hoặc sản phẩm khuyến mãi vốn đang quá tải, cắt chế độ chiết khấu thường được dùng để thuyết phục các đại lý dự trữ thêm hàng. Không cần phải nói, các đại lý không hào hứng chút nào và ngưng đặt hàng để bán cho xong lượng hàng tồn hiện tại. Và điều này khiến P&G phải cắt bớt ngân sách quảng cáo lại để bù cho lợi nhuận bị giảm.

Về trường hợp của Abercombie & Fitch, vấn đề khi cố gắng bước ra khỏi vòng xoáy của chương trình giảm giá là lợi nhuận sẽ tạm thời bị giảm trong một thời ngắn bởi vì giá cả là vấn đề nhạy cảm với người tiêu dùng khi họ so sánh với các sản phẩm khác. Nếu không có sự đồng thuận về lợi ích lâu dài cho nhãn hiệu thì tốt hơn là không làm chương trình khuyến mãi.

Vậy làm sao để tạo nên sự đồng thuận? Một điểm khởi đầu tốt sẽ là thực hiện vài cuộc nghiên cứu thị trường để xem bao nhiêu phần trăm người dùng trong ngành hàng đang tìm kiếm khuyến mãi / giảm giá, và bao nhiêu phần trăm người dùng thực sự quan tâm đến một thương hiệu cụ thể. Việc tăng doanh số trong ngắn hạn từ chương trình khuyến mãi thường là do người tiêu dùng không hề quan tâm đến thương hiệu, họ chỉ mua vì giá rẻ. Số còn lại là đối tượng người tiêu dùng sẽ không quan tâm đến giá cả và thường mua sản phẩm của thương hiệu cả khi không chạy chương trình khuyến mãi. Một khi bạn có được thông tin này, bạn có thể bắt đầu phân tích doanh số của bạn sẽ giảm bao nhiêu nếu bạn ngưng khuyến mãi so với lợi nhuận có được.

Bạn có nghĩ rằng những thương hiệu khác cũng đang cố gắng thoát khỏi vũng lầy mang tên khuyến mãi không? Họ sẽ thành công hay thất bại? Hãy chia sẻ ý kiến của mình nhé!

Nguồn: BrandsVietNam

Facebook chuẩn bị thử nghiệm quảng cáo trên TV

Facebook chuẩn bị thử nghiệm quảng cáo trên TV

Tuần tới, Facebook sẽ bắt đầu phân phối quảng cáo video trên các ứng dụng hoạt động với những thiết bị giải mã tín hiệu truyền hình (set-top box) như Apple TV và Roku.

Theo Recode, Facebook đang trở thành đế chế ở mảng quảng cáo trên nền tảng di động và máy tính để bàn nhưng vẫn chưa chạm tới được thị trường TV đầy tiềm năng. Và để bành trướng, hãng quyết định mở rộng mạng lưới quảng cáo video chạy trên các ứng dụng TV. Những hệ thống đầu tiên được Facebook thử nghiệm là Apple TV và Roku vào đầu tuần tới, nhưng chưa biết cụ thể độ dài các quảng cáo.

Chia sẻ với Recode, người phát ngôn của Facebook cho biết các quá trình thử nghiệm sắp tới sẽ giúp xác định “làm cách nào để phân phối các quảng cáo video tốt nhất qua hệ thống Audience Network để đến với những người xem nội dung trên các TV được kết nối”, bên cạnh đó là “mang đến những trải nghiệm quảng cáo thích hợp cho người dùng dù họ đang tắt hay mở Facebook”.

Hiện nay các video xem trên set-top box vẫn có quảng cáo nhưng trải nghiệm mới của Facebook hứa hẹn sẽ đem các quảng cáo tốt hơn đến khách hàng mục tiêu so với các ứng dụng trong quá khứ.

Quảng cáo Facebook sẽ sớm bùng phát trên TV? Ảnh: Reuters.

Những quảng cáo này sẽ không được hiển thị ưu tiên trên Apple TV, Roku hoặc trong các ứng dụng video như Netflix nữa mà thay vào đó, chúng sẽ chỉ xuất hiện trong các ứng dụng có sử dụng quảng cáo.

Quá trình thử nghiệm sẽ được giới hạn ở Mỹ, và thay vì hiển thị các chiến dịch quảng cáo thực sự, các video sẽ được sử dụng để quảng bá các tính năng mới của mạng xã hội Facebook như Facebook Live, hoặc các thông báo từ những đối tác phi lợi nhuận.

Thử nghiệm sẽ bao gồm việc sử dụng các địa chỉ IP và tài khoản Facebook đăng nhập vào set-top box hoặc đăng nhập trên các thiết bị khác với địa chỉ IP giống nhau. Thông qua việc sử dụng địa chỉ IP, Facebook có thể biết Apple TV được sử dụng bởi cùng một người – hoặc ít nhất là cùng một gia đình – và sử dụng dữ liệu đó để cung cấp quảng cáo phù hợp.

Khi hoàn thiện, Facebook sẽ bán các quảng cáo cho những hãng tiếp thị, tương tự như cách các quảng cáo đang xuất hiện trên các thiết bị di động và máy tính hiện nay. Tuy nhiên điều đầu tiên Facebook cần làm là thuyết phục các nhà sản xuất bộ giải mã truyền hình để dung hòa những ý tưởng quảng cáo trên thiết bị của họ vì họ cũng có những ý tưởng quảng cáo của riêng mình.

Nguồn: BrandsVietNam